Tra Cứu

Đọc lại văn bản Mùa xuân chín trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 50) và trả lời các câu hỏi: | SBT Ngữ Văn 10 tập 1 kết nối

Bài tập 5. Đọc lại văn bản Mùa xuân chín trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 50) và trả lời các câu hỏi:

1. Bài thơ được viết bằng thể thơ gì? Hãy kể tên một số bài thơ khác mà bạn biết cũng sử dụng thể thơ này và mô tả đặc điểm chung về hình thức của chúng.

2. Nhan đề Mùa xuân chín có thể gây nên sự chờ đợi gì ở độc giả? Theo bạn, sự chờ đợi đó đã được tác giả đáp ứng như thế nào?

3. Sắc màu, âm thanh và sức sống của mùa xuân đã được tác giả thể hiện như thế nào qua các phương tiện ngôn từ?

4. Phân tích hình ảnh hiện lên trong hồi tưởng của nhân vật trữ tình ở hai dòng cuối bài thơ.

5. Làm rõ giá trị biểu đạt của dấu chấm câu ở cuối khổ 1 và dấu gạch đầu dòng ở khổ 2, khổ 4.

Bài tập 6. Đọc lại văn bản Bản hoà âm ngôn từ trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 53 – 57) và trả lời các câu hỏi:

1. Theo bạn, câu văn nào trong văn bản có thể khái quát được chính xác và đầy đủ ý tưởng chính của tác giả khi đặt bút viết bài bình thơ này?

2. Tóm tắt những ý đã được tác giả triển khai nhằm chứng minh: âm điệu là một trong những phương diện đặc sắc nổi bật của bài thơ Tiếng thu.

3. Bài viết có nhiều phát hiện tinh tế về bài thơ Tiếng thu. Theo bạn, phát hiện nào sáng giá, gây ấn tượng hơn cả? Vì sao?

4. Các đoạn 1, 2, 3 của văn bản đề cập những vấn đề gì? Việc nhận thức sâu sắc về những vấn đề đó có ý nghĩa như thế nào đối với việc cảm thụ, phân tích bài thơ Tiếng thu?

5. Đánh giá khái quát về mạch lạc và liên kết trong văn bản.

Bài tập 7. Đọc lại văn bản Cánh đồng trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 71) và trả lời các câu hỏi:

1. Ấn tượng đầu tiên của bạn về bài thơ Cánh đồng của Ngân Hoa là gì? Vì sao bạn có ấn tượng đó?

2. So với việc đọc những bài thơ thuộc các thể loại khác, thể loại mà tác giả lựa chọn đã gây khó khăn hay tạo niềm hứng thú cho bạn như thế nào?

3. Xác định mối liên hệ giữa các hình tượng chính trong bài: em, đoa cúc, bình gốm, cánh đồng.

4. Chỉ ra những điệp ngữ được sử dụng trong bài và phân tích giá trị biểu đạt của những điệp ngữ đó.

5. Làm rõ sự thống nhất giữa hình thức thơ tự do và toàn bộ nội dung cảm xúc, liên tưởng, suy tưởng mà nhân vật trữ tình muốn bày tỏ.

Bài tập 5.

1. Bài thơ được viết bằng thể bảy chữ hiện đại có nguồn gốc từ thể thất ngôn cổ phong, lại có quan hệ gần gũi với thể thất ngôn bát cú và thất ngôn tứ tuyệt vốn phổ biến trong thơ thời trung đại.Theo phạm vi hiểu biết của mình, bạn cần nêu được tên của một số bài thơ viết bằng thể này, chú ý số tiếng trong mỗi dòng luôn là bảy (nhiều bài thơ tự do thỉnh thoảng cũng có những dòng bảy tiếng nhưng không thể gọi đó là thơ bảy chữ).

Một vài đặc điểm chung của thơ bảy chữ hiện đại: – Mỗi dòng thơ có bảy tiếng.

– Bài thơ thường được phân thành nhiều khổ, mỗi khổ thường gồm bốn dòng. – Vẫn phổ biến là vẫn chân (Ví dụ: khổ đầu của bài thơ Mùa xuân chín: tan, vàng, sang), nhiều trường hợp có cả vẫn lưng.

– Vẫn có khi được gieo ở cuối những dòng sát nhau (tạo thành vần liền) hoặc gieo cách quãng (tạo thành vẫn cách). Ngoài ra, còn có vần ôm. Việc vận dụng phối hợp nhiều cách gieo vần không chỉ tạo nên sự kết nối giữa các dòng trong một khổ mà còn giữa các dòng thuộc những khổ thơ khác nhau.

– Cách ngắt nhịp trong thơ bảy chữ hiện đại không cố định, nhằm lưu giữ được vẻ sống động, “nguyên chất” của cảm xúc được giãi bày.

2. Nhan đề bài thơ là một tổ hợp từ ngữ khá đặc biệt, ở đó có sự ghép nối giữa một từ chỉ thời gian (mùa xuân) với một từ chỉ trạng thái mang tính vật chất của sự vật (chín). Đây là một kiểu tổ hợp từ ngữ khá phổ biến của thơ hiện đại mà các nhà Thơ mới là những người ghi được dấu ấn đậm nét đầu tiên, góp phần vật chất hoá những ý niệm trừu tượng, mơ hồ nhằm tác động mạnh vào tri giác của người đọc theo đòi hỏi của thi pháp thơ lãng mạn.

Cụm từ”mùa xuân chín” một mặt gợi liên tưởng về sự viên mãn của mùa xuân, mặt khác gây ám ảnh không dứt về “độ phai tàn sắp sửa”. Xuyên suốt bài thơ, hai thái cực này của “mùa xuân chín” được tác giả đồng thời tô đậm. Tiếng đàn thơ đang lảnh lót ngân vang cùng “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời” bỗng hạ xuống cung trầm với một lời nhắc chứa đựng thoáng giật mình thảng thốt: ” – Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/ Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi”. Sự đối lập giữa hình ảnh “Bao cô thôn nữ hát trên đồi” với “ – Chị ấy, năm nay còn gánh thóc” cũng mở rộng, khơi sâu thêm những ấn tượng đã được báo hiệu từ nhan đề.

3. Bài thơ vẽ ra một bức tranh xuân tươi tắn sắc màu, rộn rã âm thanh. Tác giả đã sử dụng một cách rất tinh tế những từ ngữ chỉ màu sắc (lấm tấm vàng, tà áo biếc, sóng cỏ xanh tươi) và từ ngữ chỉ âm thanh (sột soạt, tiếng ca vắt vẻo, hổn hển, thầm thĩ). Các từ ngữ ấy đã kết hợp một cách khéo léo với hàng loạt động từ được gieo vào những vị trí rất “đắc địa” (ửng, tan, trêu, gợn, gặp, sực nhớ), nhằm gây ấn tượng về sự xuất hiện tiếp nối, liên hoàn của các hình ảnh nhờ một tác động thần diệu nào đó. Có thể biểu diễn ấn tượng này bằng một sơ đồ:

Cũng không thể không nói đến hệ thống vẫn kết thúc bằng phụ âm n, ng có đặc tính vang: tan, vàng, sang, làng, chang (chang chang), dễ đưa đến ấn tượng về một cái cái đẹp mong manh, khiến ta vừa sững sờ, hân hoan, vừa lo lắng, e ngại, chỉ sợ tất cả chóng tan biến đi như một ảo ảnh.

4. Người phụ nữ gánh thóc“Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?” xuất hiện ở cuối bài thơ là hình ảnh nằm dưới đáy sâu kí ức thể hiện tất cả nỗi ưu tư và niềm thương cảm của nhân vật trữ tình về làng quê. Những dự cảm lo âu mơ hồ khi đối diện với sự viên mãn của mùa xuân (cả xuân sắc của đất trời và xuân thì của đời người) cuối cùng đã xác định được nguyên nhân. Sau cái vui là nỗi lo, sau cảm xúc bồng bột, hứng khởi là cảm giác trĩu nặng, có phần day dứt. Độ chín của mùa xuân mở ra trước mắt mỗi người một cơ hội để ta nhìn thấy rõ hơn bản chất của đời người, của sự sống, giúp ta thấy quý trọng hơn những giây phút được sống trong thì hiện tại.

5. Dấu chấm câu xuất hiện ở giữa câu 4 của khổ 1 khá đặc biệt. Từ ấn tượng thị giác về dấu câu được đặt ở vị trí này, độc giả buộc phải điều chỉnh cách đọc thơ theo lối tuyến tính để cảm nhận được sức nặng của từng cụm từ, hình ảnh. Theo đó, “Bóng xuân sang, có thể được hiểu như là hình ảnh đánh dấu sự bừng tỉnh của tác giả về dấu ẩn hiển nhiên của mùa xuân. Với dấu chấm đặt ở đây, câu “Trên giàn thiên lí: cũng gợi những cách diễn giải khác nhau, tuỳ sự kết nối của độc giả với cầu trước đó:“Sột soạt gió trêu tà áo biếc”.

Ở khổ 2 và khổ 4 của bài thơ xuất hiện hai dấu gạch đầu dòng. Các kí hiệu này cho thấy mạch thơ trong từng khổ có sự chuyển đổi đột ngột. Việc đắm mình trong màu sắc, hương vị của mùa xuân không ngăn được nhân vật trữ tình liên nói:“Có kết tưởng tới những ngày tiếp nối: “Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi và sẽ oằn vai vì gánh nặng cuộc đời…

Bài tập 6.

1. Muốn chọn đúng câu văn có thể khái quát được chính xác, đầy đủ ý tưởng chính của tác giả khi viết bài bình thơ, cần đọc lại bài viết thật kĩ để lẩy ra những câu có thể cân nhắc, sau đó so sánh chúng với nhau để quyết định chọn lấy một. Thông thường, những câu văn loại này hay xuất hiện ở phần đầu hoặc phần kết luận của bài viết.

2. Những ý đã được tác giả triển khai nhằm khẳng định âm điệu là một trong những phương diện đặc sắc nổi bật của bài thơ Tiếng thu:

– Ba phần nội dung của bài thơ hợp thành một khúc thức gồm ba lời (nghĩa là bài thơ có kết cấu rất âm nhạc), vừa lặp lại, vừa phát triển.

– Vẫn điệu trong bài thơ vừa phong phú (có cả vần bằng lẫn vẫn trắc), vừa nhất quán (bằng và trắc, mỗi vẫn chỉ có một khuôn âm), hoà hợp tự nhiên với nhịp (nhịp chung ít biến động của thể thơ), tạo thành một giai điệu thu hoàn hảo.

– Tiếng thu là bản hoà âm giữa bằng và trắc, trong đó, âm bằng chiếm ưu thế nhưng âm trắc lại tạo nên nét hiếm quý của toàn bản nhạc thơ.

– Tiếng thu có sự cộng hưởng giữa âm nền (“thổn thức”, “rạo rực”) và âm nổi (“xào xạc”), vừa miêu tả được trạng thái của thiên nhiên, tạo vật, vừa thể hiện được điệu hồn của nhà thơ và thời đại.

3. Bài viết có nhiều phát hiện tinh tế về thi phẩm Tiếng thu. Tuỳ theo cảm nhận của mình về bài thơ và sự dẫn dắt của ngòi bút phê bình, hãy nêu phát hiện mà bạn cho là sáng giá và gây ấn tượng hơn cả. Tham khảo gợi ý sau:

– Bài thơ có sự hoà điệu đầy nhạc tính giữa tiếng thu và tiếng thơ.

– Bài thơ như một khúc thức âm nhạc gồm ba lời.

– Bài thơ nói đến ba thứ tiếng (tiếng thổn thức của mùa thu dưới trăng mờ, tiếng rạo rực của lòng người cô phụ, tiếng lá thu“kêu xào xạc”), trong đó, chỉ“xào xạc là âm thanh có thể nghe được bằng thính giác (âm nổi), trở thành “người phát ngôn” chính thức của Tiếng thu, cho thấy đằng sau nó là cả một bản giao hưởng vô hình của những nỗi xôn xao huyền diệu mà nhà thơ cảm thấy và muốn thể hiện rõ.

4. Các vấn đề được đề cập trong các đoạn 1, 2, 3 của văn bản đề cập đến những vấn đề:

– Mối quan hệ đặc biệt giữa mùa thu và thi ca.

– Vẻ đẹp yên bình, thanh vắng của thiên nhiên trong thơ cổ điển.

– Xôn xao – điệu hồn riêng của Thơ mới.

Việc nhận thức sâu sắc về những vấn đề trên giúp người đọc, người phê bình có được cái nhìn bao quát về một số điều kiện văn hoá, mĩ học, văn học làm nảy sinh phong trào Thơ mới và dẫn đến sự ra đời của bài thơ Tiếng thu. Đồng thời, điều này cũng có ý nghĩa định hướng cho việc cảm thụ, phân tích bài thơ: làm thế nào để nhận ra được vẻ đẹp độc đáo của Tiếng thu cũng như điệu hồn của thời đại được phổ vào trong đó.

5. Đánh giá khái quát về mạch lạc và liên kết trong văn bản:

– Văn bản được người biên soạn SGK chia thành 13 đoạn. Tất cả các đoạn đều hướng về làm rõ chủ đề chung của bài viết: Tiếng thu của Lưu Trọng Lư là một bản hoà âm ngôn từ độc đáo.

– Mỗi đoạn văn đều xoáy vào một tiêu điểm, lần lượt làm rõ các khía cạnh có liên quan tới việc đánh giá đóng góp của Lưu Trọng Lư cho thơ viết về đề tài mùa thu – một đóng góp mang đậm dấu ấn phong cách cá nhân cũng như phong cách thơ của thời Thơ mới.

– Giữa các đoạn luôn xuất hiện các phương tiện liên kết với sự láy lại nhiều từ, cụm từ, thể hiện việc giải đáp liên tục các câu hỏi nảy sinh theo logic liên tưởng và suy luận.– Trong từng đoạn văn, các câu gối nhau theo tương quan hỏi – đáp với sự xuất hiện của nhiều đại từ và kết từ.

Nhìn chung, Bản hoà âm ngôn từ trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư là một văn bản có cấu trúc chặt chẽ, đảm bảo những yêu cầu khắt khe về mạch lạc và liên kết.

Bài tập 7.

1. Có thể nêu ấn tượng về hình thức thể loại, các hình tượng chính trong bài, đặc điểm của nhân vật trữ tình,… Cũng có thể nêu những liên tưởng bất chợt nảy sinh khi đọc bài thơ hay nói tới tác động tức thì của bài thơ đối với trạng thái xúc cảm của bạn.

2. Trước hết, cần xác định thể thơ của bài thơ, sau đó, nêu những khó khăn hay niềm hứng thú mà thể thơ này đưa đến cho bạn. Những khó khăn hay niềm hứng thú có khi chỉ là một. Nếu chưa quen, những đặc điểm riêng của thể thơ có thể khiến người đọc khó tiếp nhận, nhưng nếu đã quen, chính những điểm lạ, điểm khó lại là điều gây hứng thú. Có thể nói về:

– Tính chất tự do của hình thức thơ (số tiếng trong dòng thơ, số dòng thơ trong bài thơ, số dòng thơ ở mỗi khổ; vần, nhịp;…).

– Lối triển khai mạch cảm xúc, suy tưởng rất tự do, phóng túng với nhiều liên tưởng bất ngờ, không dễ nắm bắt.

– Tính biểu tượng của các hình ảnh.

3. Bài thơ có các hình tượng chính: em, đoa cúc, bình gốm, cánh đồng. Các hình tượng vừa tồn tại độc lập vừa chuyển hoá hoà lẫn vào nhau. “Em”, từ chỗ là một đối tượng khác với “cánh đồng” khi “chạy về với cánh đồng rộng lớn mùa xuân” và để “chân ngập trong đất mềm tươi xốp” phút chốc bỗng hoá chính cánh đồng để gọi mùa màng mới, thúc giục sự sống sinh sôi. Những “đoá cúc” do “em” chủ động hải về, nhưng đến lượt nó, “cúc” gợi dậy trong “em” bao cảm giác, ước vọng, trở thành người nói hộ cho “em” tình yêu rộng mở đối với cuộc đời. “Bình gốm” như có trước để đợi hoa, nhưng mặt khác, “bình gốm” cũng do hoa mà nảy sinh. Tất cả đều chờ đợi nhau, giục giã nhau để cùng cất tiếng reo vui ngợi ca mùa xuân, ngợi ca vẻ đẹp giao hoà, căng tràn nhựa sống của cả vũ trụ.

4. Bài thơ sử dụng thường xuyên biện pháp tu từ điệp ngữ, với việc lặp lại các cụm từ: “chạm vào em”, “em gọi tên”, “chưa kịp”, “những (các) loài hoa”, “những trái cây” “đang ngủ”, ”dưới (lớp) đất cày”, “(những) chiếc bình gốm”. Việc lặp lại các cụm từ ấy một mặt gợi lên tình trạng tồn tại song trùng của các sự vật, mặt khác, gợi lên dáng dấp cuống quýt, vội vã của nhân vật trữ tình muốn ôm vào mình tất cả những gì đang nảy nở tốt đẹp trong cuộc sống. Nói khái quát, biện pháp tu từ điệp ngữ đã giúp nhà thơ diễn tả rất đạt sự nhân lên trùng điệp của những hạt mầm sự sống cùng niềm vui luôn tăng cấp trước toàn bộ những gì đang phơi mở dưới các giác quan bén nhạy của nhà thơ.5. Có sự thống nhất cao độ giữa hình thức thơ tự do và toàn bộ nội dung cảm xúc, liên tưởng, suy tưởng mà nhân vật trữ tình muốn bày tỏ:

– Bài thơ được chia làm ba đoạn, số dòng ở mỗi đoạn không đều nhau. Sự cân đối hình thức bị phá vỡ cốt để dòng cảm xúc – suy tưởng của nhân vật trữ tình được bộc lộ tự nhiên nhất, không buộc phải độn lời, một khi điều cốt lõi đã được thể hiện.

– Dòng thơ có khi gồm 23 tiếng (dòng 3, 4 của đoạn 1), dài hơn hẳn các dòng khác, miễn sao nói được toàn bộ sự run rẩy, cuống quýt, hạnh phúc của nhân vật trữ tình trước bó hoa cúc tươi mát mới hái về cắm trong chiếc “bình gốm sẫm màu”.

– Nhịp ngắt trong từng dòng thơ không cố định, đã bảo lưu trọn vẹn ngữ điệu lời nói hết sức chân thật của nhân vật trữ tình.

– Các hình ảnh kết thành chuỗi liên tục, như tự mình xuất hiện không cần lời dẫn vòng vèo, gây ấn tượng rõ rệt về một sự mới mẻ tinh khôi, phù hợp với cảm quan về đời sống của nhân vật trữ tình.

THCS Hồng Thái

“Đừng xấu hổ khi không biết, chỉ xấu hổ khi không học.” Khuyết Danh
Back to top button