Phân tích đoạn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… mình dây cổ điển trên dòng trên” trong Người lái đò Sông Đà (8 Mẫu)
- Giải câu 2 bài ôn tập phép nhân và phép chia hai phân số | sgk Toán lớp 5
- Khi tiến hành thí nghiệm chứng minh lá thoát hơi nước, nên chọn loại túi có đặc điểm gì để trùm lên lá?
- Chương trình Toán bằng tiếng anh | Từ vựng Toán tiếng Anh lớp 1 – 5
- Phép quay là gì? Phương pháp giải các dạng toán của phép quay
- Nghị luận xã hội về lí tưởng sống của con người
Phân tích đoạn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… mình dây cổ điển trên dòng trên” bao gồm dàn ý chi tiết cùng 8 bài văn mẫu hay nhất sẽ giúp các em có thêm nhiều ý tưởng mới để hoàn thiện bài phân tích theo văn phong riêng của mình.
Bạn đang xem: Phân tích đoạn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… mình dây cổ điển trên dòng trên” trong Người lái đò Sông Đà (8 Mẫu)
Đề bài: Phân tích đoạn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… mình dây cổ điển trên dòng trên” trong Người lái đò Sông Đà
Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tinh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi không chớp mắt lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hưu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng các tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bung trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên.’
(Trích tùy bút “Người lái đò Sông Đà” – Nguyễn Tuân)
Đoạn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… mình dây cổ điển trên dòng trên” chỉ là một đoạn ngắn trong bài tùy bút Người lái đà Sông Đà, chỉ nói về một nét đẹp – vẻ đẹp thơ mộng – của Đà Giang ở quãng trung lưa. Tuy vậy, ta vẫn cảm thấy được cái hay, cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân. Một chất thơ tỏa rộng, man mác.
Xem thêm:
Dàn ý Phân tích đoạn Thuyền tôi trôi trên sông Đà
I. Mở bài
Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, nhà văn nổi tiếng trong cả hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Tùy bút Người lái đò sông Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo và tài hoa của nhà văn Nguyễn Tuân trên bước đường đi tìm vẻ đẹp tả cảnh và người Tây Bắc – “chất vàng mười” của tâm hồn.
II. Thân bài
a. Vẻ đẹp trữ tình của một quãng sông êm ả, hiền hòa
– Nhà văn miêu tả một cách vô tư, khách quan kết hợp với suy nghĩ cá nhân.
– Nhiều hình ảnh đẹp, tinh lọc, sắc sảo.
– Đặc biệt, nhà văn dùng thủ pháp so sánh tu từ, nhân hóa tu từ, điệp câu trúc cú pháp để:
+ Miêu tả vẻ đẹp trữ tình, thi vị, hoang dại, cổ kính của dòng sông.
+ Gợi thần thái của dòng sông: Dòng sông như một sinh thế mang nặng tâm trạng, cảm xúc.
– Nhà văn dùng những nét chấm phá rất tài hoa của nghệ thuật hội họa, điêu khắc:
+ Gam màu nhạt tạo cảm giác trữ tình thơ mộng.
+ Không gian: tĩnh mịch, hoang vắng (ngoại trừ thanh âm của “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sóng”).
– Nhà văn có cách phối hợp thanh điệu, nhịp điệu của câu văn cũng rất tài hoa.
b. Cảm xúc của du khách – nhân vật trữ tình trên sông Đà
– Rung cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp ngây ngất của thiên nhiên và chiêm ngưỡng vẻ đẹp ấy bằng đôi mắt của một người nghệ sĩ tài hoa, một người yêu.
Nhìn cảnh ven sông lặng tờ, người nghệ sĩ liên tưởng tới quá khứ của quãng sông để so sánh, đối chiếu, khám phá ra vẻ đẹp hoang dại, cổ tích, huyền thoại kì thú của nó cũng như vẻ đẹp trẻ trung, tươi tắn nảy nở, sinh sôi của cảnh vật thực tại.
– Yêu thiên nhiên nồng nàn, tha thiết; hòa nhập tâm hồn mình với thiên nhiên. Người nghệ sĩ ấy với thiên nhiên như một người bạn tri âm, tri kỷ nên rất thấu hiểu thiên nhiên.
– Khát khao, mơ ước, hi vọng về một tương lai tốt đẹp cho vùng đất Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc.
III. Kết bài
– Cả tác phẩm cũng như trích đoạn đã khơi dậy trong lòng chúng ta tình yêu thiên nhiên, đất nước mãnh liệt, yêu những con người lao động chân chính, hăng say và đặc biệt càng thêm yêu vùng đất Tây Bắc xa xôi nhưng giàu tiềm năng của Tổ quốc Việt Nam.
Phân tích đoạn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… mình dây cổ điển trên dòng trên” – Mẫu 1
Tuỳ bút Người lái đò sông Đà nằm trong tập tuỳ bút sông Đà là kết quả của những chuyến đi thực tế Tây Bắc của Nguyễn Tuân trong và sau kháng chiến chống Pháp. Thành công của tác phẩm nằm trong việc khẳng định một phong cách nghệ thuật độc đáo, phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người vùng Tây Bắc. Song bên cạnh đó, tài năng và tâm hồn giàu rung động của Nguyễn Tuân cũng làm giàu thêm những giá trị tình cảm và thẫm mĩ cho tác phẩm bằng những trang văn tinh tế, tài hoa về vẻ đẹp thiên nhiên miền Tay Bắc vừa hùng vĩ lại vừa thơ mộng.
Đoạn trích thuộc phần cuối của bài tuỳ bút, trong mạch văn tìm kiếm và tái hiện những vẻ đẹp độc đáo của son sông Đà. Ngòi bút Nguyễn Tuân đã tung phá với những trang văn mô tả sông Đà hung bạo, đến đây lại dịu dàng, trầm lắng và lai láng chất thơ khi rung cảm trước vẻ đẹp trữ tình của dòng sông.
Đoạn trích đã dựng lại được không khí thơ mộng trữ tình của không gian sông Đà nơi hạ lưu của sông: Tính chất thơ mộng, trữ tình được tạo nên từ không khí tĩnh lặng, êm đềm, từ sắc thái tươi tắn thanh khiết của đôi bờ, từ những hình ảnh tuyệt đẹp của thiên nhiên nơi dòng sông và bờ sông.
Đoạn trích gợi cho người đọc cảm nhận không chỉ vẻ đẹp thơ mộng trữ tình trong diện mạo con sông mà còn cả vẻ lãng mạn và đa cảm của nó, con sông trong trang thơ Nguyễn Tuân như một sinh thể có linh hồn và tràn đầy xúc cảm – xuôi về quãng bằng lặng êm đềm lại nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc; hoà mình với không gian đồng bằng sông lại cũng biết lắng nghe giọng nói êm êm của người xuôi.
Cũng qua đoạn trích, nhà văn đã bộc lộ một tình yêu thiết tha với vẻ đẹp của sông nước quê hương: yêu đến độ không chỉ đắm mình trong không gian thơ mộng của con sông để cảm nhận từng vẻ đẹp mà còn giao cảm với sông để lắng nghe tiếng vọng trong lòng nó. Yêu không chỉ bằng sự gắn bó và xúc động với hiện tại mà còn yêu thương cả những khát khao về tương lai: muốn đem ánh sáng của cuộc sống hiện đại toả chiếu tận đến cả chôn sơn cùng thuỷ tận.
Câu văn ở đoạn này có ngắn lại với dạng cấu trúc gọn và đơn giản. Mỗi câu văn như một điểm nhấn của cảm xúc, cảm giác, ấn tượng, cả đoạn văn là một dòng cảm giác, cảm xúc cứ tràn đi, lan toả, bâng khuâng. Câu văn ngắn, nhiều dấu chấm câu khiến nhịp đi của hơi văn chậm lại, ngân nga, khắc khoải.
Hệ thống hình ảnh phù hợp, hô ứng với nhau để tạo cảm giác, ấn tượng về vẻ hoang sơ và tĩnh lặng của không gian: đó là những hình ảnh non tơ nhất, tươi tắn và tinh khiết nhất như lá ngô non đầu mùa, búp cỏ gianh đồi núi, vạt cỏ gianh với những nõn búp đẫm sương đêm, con hươu thơ ngộ, đàn cá dầm xanh… Trong không gian ấy, ngay cả một âm thanh rất hiện đại là tiếng còi tàu cùng được cổ tích hoá, huyền thoại hoá: tiếng còi sương. Trong một không gian như thế, sự tương thông giữa lòng người và tạo vật là một tất yếu nên một người khách sông Đà đã nghe được câu hỏi của con hươu thơ ngộ về sự tồn tại của một tiếng còi sương.
Giọng văn vừa trang trọng, trầm lắng, vừa da diết bâng khuâng vì thế tràn đầy xúc cảm. Từng câu, từng chữ, từng nhịp đi của hơi văn đều làm lộ ra cái dạt dào đó của cảm xúc. Và chính màu sắc cảm xúc khiến đoạn văn biểu hiện được một cách mạnh mẽ niềm yêu mến, sự đắm say trong tình yêu đất nước của nhà văn đồng thời cũng đánh động trong tâm hồn người đọc những xúc động bâng khuâng trước vẻ đẹp của núi sông cây cỏ trên đất nước mình.
Ngôn ngữ chọn lọc, tinh tế và giàu khả nàng gợi cảm: Những từ “lặng tờ” “hoang dại”, “hồn nhiên”, “con hươu thơ ngộ”, “tiếng còi sương” được dùng rất đắt, có sức lột tả tính chất của hình tượng. Cách so sánh độc đáo: so sánh cái cụ thể với cái trừu tượng để trừu tượng hoá, thi vị hoá một hình ảnh cụ thể nhằm gây ấn tượng cảm giác hơn là gây ấn tượng thị giác “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa “. Sức tưởng tượng phong phú khiến Nguyễn Tuân hình dung và mô tả được nỗi niềm của cả con sông và của cả những sinh vật sinh sống trên bờ sông ấy. Cách diễn đạt của Nguyễn Tuân cũng rất lạ và tinh tế: Mở đầu đoạn văn là “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”, khép lại đoạn văn là “con sông đang trôi những con đò mình nở chạy bằng buồm vải” tạo nên một không gian thật êm đềm mà mọi vận động của sự vật trong không gian đó như hoà quyện, hô ứng với nhau để tạo nên một nhịp điệu, giai điệu chung.
Đây là một trong những đoạn vần trữ tình vào bậc nhất của tuỳ bút “Người lái đò sông Đà’’ nó thể hiện được một trong hai khía cạnh rất quan trọng của sở trường cảm nhận, phát hiện và mô tả nghệ thuật của ngòi bút Nguyễn Tuân để ở đoạn văn này, có thể coi Nguyễn Tuân là nhà văn của những phong cảnh thiên nhiên tuyệt mĩ.
Đoạn văn đã góp phần quan trọng trong việc tái tạo vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà, của thiên nhiên đất nước gấm vóc nên thơ đồng thời góp phần khẳng định tài năng của Nguyễn Tuân trong nghệ thuật viết tuỳ bút.
Phân tích đoạn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… mình dây cổ điển trên dòng trên” – Mẫu 2
Từ Vang bóng một thời (1940) đến Sông Đà (1960), con đường sáng tạo văn chương cùa Nguyễn Tuân đã trải qua 20 năm tròn. Tùy bút Sông Đà làm cho chân dung văn học của Nguyễn Tuân thêm tươi sáng, rạng rỡ. Với 15 tùy bút và một bài thơ phác thảo, Sông Đà đã khẳng định vị trí vẻ vang của Nguyễn Tuân trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, tô đậm một phong cách nghệ thuật uyên bác, độc đáo và tài hoa để ta thêm yêu mến tự hào.
Người lái đò Sông Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà thể hiện cá tính sáng tạo của Nguyễn Tuân trên một tầm cao phát triển mới. Là nhà văn của những tính cách phi thường, Nguyễn Tuân phát hiện, miêu tả con người Tây Bắc mang bao phẩm chất tuyệt đẹp mà ông gọi đó là “chất vàng mười” của tâm hồn. Là một con người yêu thiên nhiên tha thiết, ông nói về cảnh sắc sông Đà với những phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi và sông, về cây cỏ trên một vùng đất nước bao la, hùng vĩ và thơ mộng.
Bút pháp của Nguyễn Tuân rất biến hóa. Lúc thì ông miêu tả sông Đà “hung bạo và trữ tình” qua cặp mắt ông lái đò dũng cảm, tài hoa. Lúc thì ông nhắc đến sông Đà như một “cố nhân” sau những ngày dài ở rừng đi núi “thèm chỗ thoáng”, và khi gặp lại con sông “vui như thấy nắng giòn tan sau kì mui dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Có lúc Nguyễn Tuân từ trên tàu bay nhìn xuống Đà Giang bâng khuâng dõi theo dáng hình của nó “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình…”. Có lúc ông lại trôi theo con đò êm ả xuôi dòng để thăm thú và tận hưởng vẻ đẹp hoang sơ, kì thú mà nhiều người trong chúng ta thèm khát. Nhà văn đang miêu tả hay đang tâm tình. Đây một đoạn tùy bút đẹp, gợi tả vẻ đẹp hoang sơ, thơ mộng của miền trung lưu Sông Đà, một bài thơ trữ tình bằng văn xuôi hiếm có:
Xem thêm : Tính chất hóa học của Flo (F) Brom (Br) iot, bài tập về Flo Brom Iot – hóa 10 bài 25
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ… và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.
Nếu trong cảnh vượt thác, Nguyễn Tuân tung ra một vốn từ ngữ phong phú, chính xác, mới lạ để diễn tả cuộc chiến giữa ông đò với thần sông, thần đá có đủ quân đông, tướng dữ, bằng một giọng văn mạnh mẽ, nhịp vần gấp như thác gầm, sóng réo, thì đến đoạn văn này giọng văn, nhịp điệu thay đổi hẳn: nhẹ nhàng, lâng lâng, mơ màng. Vẻ đẹp thơ mộng, êm đềm của Đà Giang ở quãng trung lưu được diễn tả đầy chất thơ. Đó là quãng sông từ thác Tiếu trở như một câu tục ngữ Thái đã nói: “Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm” – mới có vẻ êm đềm thơ mộng ấy. Câu văn toàn thanh bằng diễn tả con thuyền êm ái nhẹ nhàng trôi xuôi: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà…”. Một không gian nghệ thuật “lặng lờ” như ru “ông khách Sông Đà” vào giấc mộng phiêu du. Cái “lặng lờ” được nhấn đi nhấn lại như ướp hương rừng gió núi vào hồn người mà lắng nghe, mà cảm nhận, mà thưởng ngoạn: “Cảnh ven sông ở đáy lặng tờ, hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà. Ngược thời gian một thiên niên kỉ về trước, hai tiếng “lặng tờ” dẫn người đọc trở về với “mấy trăm năm thấp thọáng mộng bình yên” (Hoàng Cầm). Đã có cái “phẳng lặng tờ” của con sông trong cổ thi: “Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ” nên mới có cái “lặng tờ” êm như ru của sông Đà mà Nguyễn Tuân cảm mến.
Mơ màng nhìn dòng sông, nghe nước êm trôi “lặng tờ”, ông khách sông Đà bâng khuâng nhìn xa, nhìn gần cảnh ven sông. Bao trùm cảnh vật là một màu xanh hoang sơ, hồn nhiên. Cũng thấy nương ngô “nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, đã có dấu ấn của con người in trên màu xanh mỡ màng ấy, nhưng thật vô cùng ngạc nhiên “mà tịnh không một bóng người”. Chỉ có đồi gianh nối tiếp đồi gianh trùng điệp với những “nõn búp” ngon lành. Hình ảnh đàn hươu xuất hiện trên màu xanh bát ngát những đồi gianh là một nét vẽ tài hoa làm cho bức tranh thiên nhiên sông Đà đượm màu “hoang dại” và “cổ tích”. Không phái chú nai vàng ngơ ngác trong cái xào xạc của lá thu rơi thuở nào : mà ở đây chì có: “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Chỉ có Nguyễn Tuân mới có cái nhìn “xanh non” ấy, mới có cách nói, cách tả độc đáo ấy; ông đã thả hồn mình vào linh vật, mà yêu mến, nâng niu. Câu văn của ông tưởng như là hai vế của của một câu song quan trong bài phú lưu thúy: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử;
Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa Nguyễn Tuân so sánh không phải để cụ thể hóa sự vật mà là trừu tượng hóa, thơ mộng hóa cảnh vật. “Bờ tiền sử”, “nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” là chữ của nhà văn bậc thầy về ngôn ngữ này. Nguyễn Tuân không dựa vào trực giác để so sánh, ông ta đã dùng tưởng tượng để tạo nên những liên tưởng, những so sánh đầy chất thơ và rất kì thú, gieo vào tâm hồn người đọc bao cảm xúc, để cùng ông tận hưởng cái vẻ đẹp “hoang dại” và “hồn nhiên” của Đà Giang.
Rồi từ trong cái không gian “hoang dã” ấy của đôi bờ sông Đà, Nguyễn Tuân khao khát sống, khao khát “thèm” một âm vang của thời đại. Từ giấc mơ của “bờ tiền sử” chuyển sang giấc mơ về một tương lai huy hoàng qua một tiếng còi tàu kì diệu… Trong mộng tưởng có nhiều say mê: “Chao ôi thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đườngsắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu’’. Ông yêu sông Đà với cái “hồn nhiên”, “hoang dại’’ của nó, đã “nhìn sông Đà như một cổ nhân”, ông còn “thèm” ánh sáng của thời đại chiếu rọi đôi bờ Đà Giang, đưa người đọc cùng ông bay lên cùng “ngọn gió ngày mai thổi lại…”. Chất lãng mạn trong văn Nguyễn Tuân dìu dịu trong hương hoa “bữa tiệc thạch lan hương” thuở nào, chỉ đủ cho ta mơ ước về một viễn cảnh…
Đó là dư vị, là nhã thú mà ta cảm nhận được qua tiếng còi xúp lê mơ màng. Cuộc đối thoại giữa ông khách sông Đà và con hươu thơ ngộ đích thực là một bài thơ trữ tình kì diệu, một giấc mơ chập chờn chơi vơi trong cái lặng tờ của ven sông. Cái tĩnh lặng của khoảnh khắc giao cảm thần tiên giữa ông khách sông Đà với đàn hươu núi đã lên đến đỉnh điểm. Trên cái nền xanh của cò sương, hươu chăm chăm nhìn người như dò hỏi. Lòng người và tạo vật cùng rung động: “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhin tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò”. Hươu nhìn người mà ngơ ngác Người nhìn đàn hươu mà lâng lâng chìm vào mộng tưởng. Không một tiếng động nhỏ. Cả một không gian nghệ thuật trở nên tĩnh lặng, thiêng liêng, nhiệm màu. Hươu hỏi người hay người tự hỏi? Một giả định vừa thực vừa mộng ảo, siêu thực mà lãng mạn.
Từ cõi mộng mà trở về thực tại với bao nỗi bồi hồi: Hươu vểnh tai, nhìn tôi khôug chớp mắt mà như hỏi mình bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Có thể nói những nét vẽ của Nguyễn Tuân về đàn hươu núi là những nét vẽ tài hoa, độc đáo, đã gợi tả cái vẻ đẹp hồn nhiên hoang dại của đôi bờ con sông Đà, đã tạo nên chất thơ, chất mộng ảo, dào dạt trong lòng người và thiên nhiên tạo vật. Câu chữ rất có duyên gợi lên cái hồn của cảnh vật: “Con hươu thơ ngộ”, “ngẩng đầu nhung”, “áng cỏ sương”, “chăm chăm nhìn”, “Con vật lành”, “tiếng còi sương…”. Nguyễn Tuân đã nhìn thiên nhiên với cái nhìn phát hiện ở những chi tiết, dáng vẻ mang tính thẩm mĩ tài hoa.
Cảnh biến đổi nên câu văn Nguyễn Tuân cũng co duỗi biến hóa. Một tiếng động nhỏ của con cá dầm xanh như làm cho ông khách sông Đà chợt tỉnh mộng. Mượn cái động để tả cái tĩnh được vận dụng sáng tạo, mở ra một không gian nghệ thuật mới. Cá quầy, đàn hươu vụt biến, cá vọt lên mặt sông “bụng trắng như bạc rơi thoi”. Như một đoạn phim chuyển cảnh từ tĩnh qua động để rồi tĩnh lặng hơn. Hươu núi vụt biến, cá bụng trắng vượt lên rồi rơi xuống, lặn xuống; trước mắt du khách chỉ còn là một màu xanh của nước, màu xanh cùa cỏ gianh đồi núi. Câu văn “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi” là một câu văn đẹp, có âm thanh, có màu sắc, có cái nghe thấy, có vật nhìn thấy, có điều cảm thấy. Hình ảnh so sánh “đàn cá. bụng trắng như bạc rơi thoi” đầy chất thơ vừa gợi tả sắc trắng (như bạc), vừa chỉ rõ dáng hình thon dài (như thoi) của đàn cá dầm xanh.
Cá quẫy… đàn hươu vụt biến… và ông khách sông Đà chợt tỉnh mộng, trở về thực tại, với con đò trôi xuôi, êm ái, lặng tờ. Vốn là một nhà văn tài hoa. uyên bác, những câu văn, câu thơ cổ kim đông tây, ông “giắt đầy mình”, vui thì ông đưa duyên, buồn thì ông ngâm ngợi Tản Đà với Nguyễn Tuân là đôi bạn vong niên. Chưa có thi sĩ nào viết nhiều và viết hay về núi Tản sông Đà như Nguyễn Khắc Hiếu. Có trăng phải có rượu, cũng như có cảnh đẹp thì phải ngâm thơ. Nguyễn Tuân coi sông Đà là “cố nhân”, nên lấy thơ thi sĩ Tản Đà ra ngâm vịnh, mà ngắm cảnh đẹp Đà Giang, hỏi có còn nhã thú nào bằng? Tản Đà có ba bài thơ trường thiên cùng chung một giọng điệu: “Thư đưa người tình nhân không quen biết” (1918), “Thư trách người tình nhân không quen biết (1921), “Thư lại trách người tình nhân không quen biết” (1926). Nguyễn Tuân chỉ trích hai câu trong bài thơ thứ hai, trích hai câu hay nhất, đích đáng mà lại vừa hợp cảnh, hợp tình, ông viết:
“Thuyền tôi trôi trên “dải sông Đà bọt nước lênh bênh – bao nhiêu cảnh bấy; nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Việc trích dẫn thơ Tản Đà ở đây còn mang một ý nghĩa “tri ân”, “Rượu ngon không có bạn hiền” để cùng nhau “đối tửu”. Cũng như có cảnh đẹp mà thiếu bạn thì cái yêu hoa thưởng nguyệt đã giảm đi ít nhiều nhã thú. Đọc thơ bạn, ngâm bạn trong lúc này, Nguyễn Tuân xem như bạn đang cùng mình ngồi trên thuyền trôi trên “dải sông Đà bọt nước lênh bênh…” mơ màng tâm tình và thưởng ngoạn. Đó là tài tử, là tài hoa. Đó là tri ân, tri kỉ.
Càng về xuôi, sông Đà càng rộng thêm ra, dòng sông mênh mông hơn, êm nhẹ hơn. Nhìn dòng sông nước chảy “lững lờ”, nhà văn cảm thấy nó “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”. Dòng sông vẫn “lững lờ” êm trôi “như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”, “Con đò mình nở chạy buồm vải”, “Con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển”, là nhận xét, là cách tả, là cách dùng từ rất độc đáo của Nguyễn Tuân. Mỗi câu, mỗi chữ đều phả linh hồn vào dòng sông, vào con đò, vào cảnh vật. Những so sánh ẩn dụ, những nhân hóa trong đoạn văn này cho thấy một tình yêu sông núi thiết tha, một cái nhìn đàm thắm nồng hậu, một cái lắng nghe trìu mến yêu thương. Nguyễn Tuân như đang mở rộng lòng mình, tâm hồn mình với dòng sông để cùng với nó mà “lắng nghe”, mà nhớ thương, những âm vang, những nhịn sống ấm ấp của cuộc đời. Ta cảm thấy có một dòng sông đang êm trôi,đang lững lờ trong tâm hồn minh, bát ngát mênh mông… Văn Nguyễn Tuân không chỉ đem đến cho ta bao nhã thú mà còn để lại nhiều dư vị, dư ba là vậy!
Nguyễn Tuân yêu sông Đà, yêu Tây Bắc, yêu một trời hoa ban, yêu một sắc đầy Tô Hiệu, yêu một ông lái đò dũng mãnh tài ba, lúc vượt thác cũng như lúc ngồi trong hang đá nướng ống cơm lam… Bác Nguyễn yêu cái lặng tờ của dòng sông ,yêu đàn hươu rừng thơ ngộ, yêu một tiếng cá dầm xanh quẫy, vọt lên mặt sông “bụng trắng như bạc rơi thoi”. Tác giả Sông Đà còn yêu và say mê ngắm “con đò đuôi én thát mình dây cổ điển” của người Thái, “con đò mình nở chạy buồm vải” của người Kinh, người Mường… Yêu sông Đà, yêu cảnh sắc sông Đà yêu Tây Bắc, với Nguyễn Tuân, với chúng ta, chính là tình yêu sông núi, yêu con người Việt Nam cần cù, nhân hậu, dũng cảm, tài ba..
Đoạn văn trên đây chỉ là một đoạn ngắn trong bài tùy bút Người lái đà Sông Đà, chỉ nói về một nét đẹp – vẻ đẹp thơ mộng – của Đà Giang ở quãng trung lưa. Tuy vậy, ta vẫn cảm thấy được cái hay, cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân. Một chất thơ tỏa rộng, man mác. Một ngòi bút nhiều khám phá, sáng tạo và kiến tạo trong tạo hình dựng cảnh, trong dùng chữ, đặt câu. Những so sánh, ẩn dụ và liên tưởng rất gợi. Đây là một đoạn hay và đẹp nói về hương sắc đất nước. Chất tài hoa, tài tử, cái bề thế độc đáo, sắc sảo và uyên bác của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân để lại dấu ấn trên “trang hoa”, “tờ hoa” này.. Người đọc vẫn cảm thấy mình trở thành “ông khách sông Đà” đang cùng con thuyền nhẹ trôi trên Đà Giang cùng với bác Nguyễn say mê ngắm cảnh đẹp của hương núi, hoa ngàn và lắng nghe tiếng cá dầm xanh quẫy trên cái lững lờ cùa dòng sông “dải sông Đà bọt nước lênh bênh…”.
Phân tích đoạn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… mình dây cổ điển trên dòng trên” – Mẫu 3
Người lái đò sông Đà là một bút kí rất đặc sắc của Nguyễn Tuân rút từ tập Sông Đà (1960). Hình ảnh con sông Đà với hai đặc tính nổi bật là “hung bạo và trữ tình” đã được khắc họa thật đậm nét. Để có thể khách thể hóa được đối tượng và “đóng đinh” nó vào trí nhớ độc giả, Nguyễn Tuân đã tung ra nhiều “độc chiêu” ngôn ngữ tưởng chỉ mình không mới có. Khi miêu tả những con thác vô cùng “độc dữ, nham hiểm”, câu văn của ông mang nhịp diệu dồn dập, kích thích. Nhưng khi ca ngợi “con sông Đà gợi cảm”, câu văn lại thư duỗi hết sức êm ả nghe như một tiếng hát ngân nga. Văn Nguyễn Tuân gồm chứa cả hai cực đó là cực thứ hai – cực trữ tình mềm mại và thấm đượm một thứ “mĩ học hoài cựu” độc đáo được thể hiện rất rõ trong đoạn văn từ câu “Thuyền trôi trên sông” đến câu… “khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.
Nội dung của đoạn văn là nói về vẻ thơ mộng của sông Đà ở quãng trung lưu. Thác ghềnh lúc này chỉ còn lại trong nỗi nhớ. Thuyền được trôi êm và câu văn mở đầu vì thế cũng trở nên lâng lâng, mơ màng, không vướng víu với một thanh trắc nào: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”. Cái “lặng lờ” được nhắc đi nhắc lại mấy lần theo một kiểu trùng điệp rất đặc thù của thơ: “Cảnh ven sông ở đây lặng lờ, hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng lờ như thế là thôi”, nghĩa là không thể lặng lờ hơn được nữa! Thiên nhiên thật hài hòa và mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, dành riêng cho con mắt nhìn “xanh non” của tác giả những hình ảnh kì thú: “Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Cảnh đã làm cho vị tình nhân của non nước Đà giang hết sức xúc động. Ông thấy cần phải nói thêm nữa đề diễn tả cho cùng kiệt đặc tính của đối tượng: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”. Những so sánh lạ lầm, chính xác mà cùng thật Nguyễn Tuân! Nhà văn đã đi ngược thói quen, đem giải thích một đặc tính vốn đã khá trừu tượng bằng những khái niệm trừu tượng hơn nữa, khiến cho cảm giác trực tiếp bỗng mở ra những liên tưởng trùng trùng, bát ngát. Đi từ “hoang dại”, “hồn nhièn” là cái còn có thể cảm nhận được, đến “tiền sử” và “nỗi niềm cổ tích ngày xưa”, câu văn đã cập bờ siêu cảm giác, đòi hỏi người đọc phải tiếp nhận nó bằng siêu giác quan chứ không phải bằng giác quan bình thường. Trong câu tiếp theo: “Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê cúa một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”, một mặt nhà văn bộc lộ thèm ước muốn có tiếng còi kéo mình ra khói mạng lưới vô hình mà quấn chặt của giấc mơ xưa, mặt khác tạo nên một cái cớ tuyệt điệu để biến cả một đoạn văn thành một bài thơ siêu thực mà trong đó giữa người với cảnh có sự tương thông rất đỗi huyền nhiệm và cái hư phút chốc biến thành cái thực: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ dừ trôi trên một mùi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi mình bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cùng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?” Người mơ cảnh cũng mơ, và cái thời điểm “ông khách sông Đà” bỗng nghe ra tiếng chú hươu gọi hỏi chính là đỉnh điểm của giấc mơ đó. Nhà văn đã khéo tạo được một giấc mơ ngay giữa ban ngày để rồi sau đó như sực tỉnh với tiếng động của “Đàn cá dầm xanh quầy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuối mất đàn hươu vụt biến”. Phút sực tỉnh cũng là phút nhà văn hiến cho độc giả một hình ảnh cực kỳ sống động mà ai được một lần thấy trong đời hẳn phải nhớ mãi. Bút pháp mượn cái động để tả cái tĩnh đã được vận dụng ở đây hết sức đắc địa. Cảnh tĩnh lặng đến mức chỉ tiếng cá quẫy cùng đủ khiến ta phải giật mình. Nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, cái tĩnh không đồng nghĩa với sự phẳng lặng, đơn điệu mà vẫn luôn hàm chứa sự bất ngờ, vẫn không ngớt biến hóa. Theo con thuyền thả trôi, điểm nhìn của nhà văn liên tục di động và “di động” hơn nữa là cái nhìn của Nguyễn Tuân. Có vẻ như ông muốn học cách nhìn của “con hươu thơ ngộ”, “vểnh tai”, “nhìn không chớp mắt” những sự vật như hiện lên từ thế giới cổ tích, sau đó truyền sự bỡ ngỡ lại cho độc giả qua những từ dùng độc đáo, sáng tạo, kích thích rất mạnh giác quan và vốn ngôn ngữ của chúng ta: “thơ ngộ”, “đầu nhung”, “áng cỏ sương”, “tiếng còi sương…”. Vật nào cảnh nào được cây đùa thần của nhà văn động đến đều cựa quậy, không chịu ép mình làm một tiêu bản dẹt. Có lúc, Nguyễn Tuân như vượt qua lề luật của phép diễn đạt thông thường để viết: “Đàn cá đầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”. Có thể nói câu văn kia đã được viết theo bút pháp của hội họa “lập thể” mà mục đích của nó là muốn cùng một lúc thấy được sự vật ở nhiều chiều. Trước một nét miêu tả rất cô đọng như thế, ta không chỉ thấy mà còn nghe – thấy cái lấp lánh ánh bạc của bụng cá và nghe tiếng quẫy nước rộn ràng vang ngân.
Nguyễn Tuân là người hết sức nặng tình với con sông đất nước. Trong khi thưởng ngoạn vẻ đẹp thơ mộng của sông Đà, trong ông dậy lên bao mối liên tưởng về lịch sử, dậy lên cảm giác hàm ơn sâu xa đối với cổ nhân. Việc ông nhắc tới đời Lí, đời Trần, đời Lê và câu thơ của Tản Đà cho thấy rõ một thiên hướng bộc lộ cảm xúc rất đặc thù của người từng viết Vang bóng một thời. Nhưng trước vẻ “hoang dại” của bờ sông Đà, nhà văn cũng có những suy nghĩ mang tính tích cực của người công dân mới, mong cuộc sống hiện đại tỏa chiếu ánh sáng lên cả chốn sơn cùng thuỷ tận. “Tiếng còi sương” xuất hiện ở đây ngân xa như một khát vọng, nó hài hòa với cảm hứng lịch sử, tạo cho đoạn văn một vẻ đẹp vừa cổ kính, vừa hiện đại. Đối với Nguyễn Tuân, những cái gì mang trong nó hơi thở ấm áp của cuộc đời đều để thương, để nhớ, để lưu luyến cho ông. Trong những câu cuối của đoạn văn này, ông đã trải lòng mình ra với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe và xúc động: “Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”. Qua mỗi dặm đường đất nước, nhà văn đều thấy cảnh vật và con người gắn quyện với nhau rất chặt chẽ.
Yêu sông Đà cũng chính là yêu Tổ quốc và yêu con người Việt Nam – những “đồng tác giả” của trăm vẻ đẹp từng làm đắm đuối lòng ta trên “trăm dáng sông xuôi” (ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm).
Chỉ mới qua một đoạn trích ngắn ngủi, ta chưa có điều kiện thấy hết những đặc sắc của văn Nguyễn Tuân. Nhưng chừng ấy tưởng cũng đã đủ để ta quý trọng một tài năng, một tấm lòng, một Nguyễn Tuân – con người suốt cuộc đời đi tìm cái đẹp trong cuộc sống để sáng tạo nên những áng văn đẹp, làm phong phú, giàu có thêm đời sống tinh thần của tất cả độc giả chúng ta.
Phân tích đoạn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… mình dây cổ điển trên dòng trên” – Mẫu 4
Trong cuộc kháng chiến mất còn của dân tộc, những dòng sông, cánh đồng, mảnh đất, ngôi làng đã đồng hành sống và chiến đấu với con người và hóa thân vào văn chương thành những vẻ đẹp của quê hương, đất nước. Một sông Mã gầm khan trầm uất, một sông Đuống cuộn trôi mang bao ảnh hình xứ sở…Đến với Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, ta cùng tác giả vượt thác xuống ghềnh và rồi thả thuyền hồn trôi xuôi trong một đoạn tả sông Đà trữ tình: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà…trên dòng trên”.
Nếu ví người lái đò sông Đà như bản trường ca với những cung bậc khi mãnh liệt lúc réo rắt ngân vang thì đoạn văn trên là một khúc ca êm ái nhất. Không những thế đoạn văn còn như một bài thơ, với những ý tưởng vần điệu nhịp nhàng, mềm mại. Ở những giai đoạn trên, ta bắt gặp một con thuyền chiến của người lái đò, còn đây là một con thuyền thơ của một hồn văn đầy chất thơ. Nhưng phải chăng vì cả ông lái đò và tác giả đều là người nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình nên cả hai con thuyền đều là thuyền thơ, chỉ khác là một tứ thơ dữ dội, khốc liệt và một tứ thơ êm đềm, dịu dàng. Hòa vào tứ thơ ấy, không gian liên tưởng của người đọc cứ mở ra mãi nhờ những cách so sáng. Các nhà văn khác thường so sáng cụ thể hóa sự vật còn Nguyễn Tuân, ông so sánh để làm vạn vật trở nên kích thích, mở rộng trí tưởng tượng. Hãy nghe cách so sáng của ông: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Từ một hình ảnh cụ thể, hữu hình “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cố tích tuổi xưa”. Từ một hình ảnh cụ thể, hữu hình “bờ sông” gợi đến bao cái vô hình “bờ tiền sử”, “nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Câu trên nghe hoang vắng, xa xăm. Câu dưới òa ập, xôn xao cảm xúc. Tác giả nhắc nhở tuổi thơ, ý văn tiếp nối với đoạn văn trên khui tả sông Đà “loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Tuổi thơ như khoảng thời gian thần tiên trong hồn người. Và đi bên tuổi thơ của mỗi con người là tuổi thơ của nhân loại, bởi dòng sông nào cũng là chứng nhận của việc an cư lạc nghiệp, của biết bao biến đổi thăng trầm của lịch sử. Ở trên, Nguyễn Tuân đã nhìn sự vật trong chiều sâu lịch sử, trong ý thức hướng về truyền thống khi nói cái ” lặng tờ” của cảnh sông. Dường như dòng sông lặng tờ lại càng lặng tờ hơn bởi bề dày lịch sử của mấy trăm năm cộng lại. Tiếp nối sức mạnh quá khứ là hình ảnh bờ sông – bờ tiền sử. Và khi nhà văn “them được giật mình vì tiếng còn xe lửa” thì tương lai đã náo nức reo vui. Cứ thế văn Nguyễn Tuân đưa người đọc từ thế giới này đến thế giới khác một cách uyển chuyển khéo léo. Và phải chăng, Nguyễn Tuân đã viết văn đúng như quan niệm về thơ của ông “từ một cái hữu hình nó thức dậy được những cái vô hình bao la, từ một cái điểm nhất định mà nó mở ra được một cái diện không gian thời gian”, khi so sánh bờ sông như vậy? Ngoài ra, ông còn đem vật thể so sáng với tình cảm, cảm xúc trong hình ảnh” một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa hay như “Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương…Con sông như đang lắng nghe…” Nguyễn Tuân đã nhập thân vào dòng sông để lắng nghe và xúc động, lòng dâng dầy chất thơ. Mơ mộng thay khi nối tiếp những vần thơ bập bềnh sông nước của Tản Đà là những cảm xúc rất thơ như thế! Thế giới vật chất, thế giới tinh thần xa xăm cứ thế mà nối qua những liên tưởng của nhà văn. Con sông đang “nhớ thương”, đang “lắng nghe” hay chính nhà văn đang thương nhớ, lắng nghe những tâm tình của cuộc sống?
Chất thơ của đoạn trích còn thể hiện ở cách viết văn như thơ của Nguyễn Tuân. Câu mở đoạn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” êm êm những thanh bằng như một câu lục trong thơ lục bát. Vần lưng “tôi trôi” và điệp âm “t” gợi hình ảnh con thuyền nổi nênh trên mặt sông. Những thanh ngang nằm giữa hai thanh bằng hai đầu câu văn như tạo một khoảng ngưng đọng cho cảm xúc. Thuyền trôi mà như không trôi, như tình cảm cứ đọng mãi, chất chứa trong thuyền. Và cụm từ “thuyền tôi trôi” ấy cứ như một điệp khúc bằng lặng trong suốt cả đoạn văn. Đây là một kiểu trùng rất đặc trưng của thơ hay cũng là sự điệp trùng của cảm xúc. “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô..”, ” thuyền tôi trôi trên dải sông Đà…” tưởng như thuyền hồn người đọc cũng xuôi lặng theo dòng tâm tư khởi toàn thanh bằng nhẹ bỗng như thế. Hồn người như tan ra hòa cùng cảnh sắc. Con thuyền cũng trôi trên một dòng sông cũng lững lờ trôi theo những câu văn ngắn, chảy dài, chảy dài theo những câu văn dài. Có phải câu văn cứ khi dài, khi ngắn linh hoạt như dòng chảy lúc nhanh lúc chậm của con sông? Câu “Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” xao động với những thanh trắc nhỏ nhẹ cố như khép lại nén lại cảm xúc đang dân trào. Ngoài câu văn mở đầu với sáu thanh bằng còn có vế câu nhiều thanh bằng nữa như “chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên…”. Những thanh bằng ấy như cố lắng xuống để ghi nhận trong khoảnh khắc ánh nhìn của chú nai tơ. Và hai từ láy “chăm chăm”, “lừ lừ” chỉ trong một vế câu ngắn như đong đầy cảm xúc. Ngoài ra còn có những từ láy khác như “lững lờ”, xa xôi, êm êm” đều gợi cảm, tạo nhạc. Bên cạnh một thứ nhạc thơ thấm đẫm đoạn văn là một điệu nhạc tâm hồn cứ khe khẽ hát lên, một chất thơ trở đầy tâm trạng.
Chất thơ mơ mộng còn bao trùm cả cảnh sông bằng những ảnh nai tơ, mỡ màng nhất: “lá ngô non đầu mùa”, nõn búp, búp cỏ gianh, những con vật hiền lành: con hươu thơ ngộ, đàn cá dâm xanh. Cảnh sắc thơ như từ một thế giới cổ tích nào đấy hiện về, vừa chân thực mà hư ảo, gần gũi mà xa xăm, bảng lảng một lớp sương huyền hồ của “cỏ gianh đẫm sương đêm”, “áng cỏ sương” và cả “tiếng còi sương”. Tưởng như một tâm hồn lần đầu bắt gặp sự xanh non của cuộc sống. Những câu văn tươi xanh như thức dậy phần non tơ nhất của hồn người, thức dậy một ý thơ của Xuân Diệu “Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non”. Có thể hình dung đây là một buổi sớm mùa xuân tinh khôi, mùa xuân của cuộc sống và mùa xuân của lòng người. Mỗi câu văn “đẫm sương” ấy là một nét vẽ, tưởng như hòa vào nhau song tách bạch rất rõ rang. Một màn sương cứ rải nhẹ trong tâm trí độc giả, như nhắc nhở bao huyền thoại xa xưa, bao không gian cổ tích diễm ảo. Ta như cùng Nguyễn Tuân ngây ngất đắm say những nét diệu kỳ nhất của tạo hóa. Có một sự sống của mình trong ba thanh trắc “nhú”, “mấy”, “lá”, có một cái gì mềm mại trong “đầu nhung”. Và ấn tượng nhất là cỏ, ta chỉ nghe “ngọn cỏ”, “sóng cỏ” nhưng “búp cỏ”, “áng cỏ sương” thì có lẽ chưa bao giờ. Nếu thi hào dân tộc Nguyễn Du tả ngọn cỏ như một minh chứng cho sự đồng điệu đến kỳ lạ của thiên nhiên đối với con người thì Nguyễn Tuân nay đã đưa ngọn cỏ lên khía cạnh thơ nhất, đẹp nhất. Màu xanh của bờ đồng cỏ mênh mông đã nhuộm non cả đoạn văn – bài thơ của Nguyễn Tuân.
Bài thơ cuối ấy còn đạt đến chất thơ tuyệt vời bằng nghệ thuật cổ điển lấy động tả tĩnh. Khung cảnh lặng tờ đến nỗi tác giả cảm nhận được cả tiếng cá quẫy. “Tiếng cá đập nước sông đuồi mất đàn hươu vụt biến”. Phải chăng đó cũng là khoảng lặng trong tâm hồn của Nguyễn Tuân để hứng lấy những âm thanh nên thơ của sự sống, một sự sống trỗi mình trong lá ngô non, búp cỏ non mạnh mẽ trong tiếng đập nước của cá? Đàn hươu hiện ra chạy mất, phải chăng trong đoạn văn mơ mộng của Nguyễn Tuân, mọi vật đều trở nê hiền lành đến mức thơ ngây nhất? Từ một cái diện mênh mang một điệp khúc xanh của ngô non, áng có, nhà văn điểm vào sắc trắng của bụng cá. Nghệ thuật hội họa cổ điển đã đuộc vận dụng, khám phá mọi vẻ thơ ngây của cuộc sống.
Trong không gian u huyền ấy bỗng tác giả “thèm được giật mình vì một tiếng còi sương”. Đặt vào hoàn cảnh chưa có chuyến tàu nào đi Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu. Câu văn như một tiếng reo náo nức của tác giả trước công cuộc xây dựng miền Bắc (1958 – 1960). Khi ấy, Tố Hữu đã cho ra đời những vần thơ đẹp.
Yêu biết mấy những dòng song bát ngát
Giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô non
Yêu biết mấy những con đường ca hát
Qua công trường mới dựng mái nhà son.
Tiếng còi sương là ảo, là âm thanh trong tâm tưởng nhưng lại nói lên một ước vọng rất thực tế của nhà văn. Thèm được nghe một tiếng còi xa lửa đã quý, như Chế Lan Viên.
Mắt ta them mái ngói đỏ trăm ga.
(Tiếng hát con tàu)
Bạn đang xem: Phân tích đoạn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… mình dây cổ điển trên dòng trên” trong Người lái đò Sông Đà (8 Mẫu)
Nhưng “them giật mình” thì lại càng quý hơn bởi Nguyễn Tuân khao khát cái cảm giác khi được nghe tiếng còi Tây Bắc mở mang. Ta đã từng trân trọng cái giật mình vì phẩm giá “thương mình xót xa” của Kiều, cảm thông cái giật mình hoài nhớ của Tú Xương khi “vẳng nghe tiếng ếch” thì nay ta lại nâng niu thêm một cái giật mình ước tương lai của tác giả sông Đà. Và như thế đoạn văn của sông Đà của Nguyễn Tuân đã là văn chương mới của một thời đại mới. Trước Cách mạng, ông đã từng “xê dịch” để tìm những cảm giác mới lạ, để trốn tránh trách nhiệm thì sau ngày đổi đời của dân tộc, ông lại đi để tìm hình ảnh quê hương và nhận chân trách nhiệm của mình. Thưởng ngoạn nhưng không quên vì người, vì cuộc sống mới, quả thật văn Nguyễn Tuân đã “hợp lưu” với lòng người đọc dễ dàng nhờ những suy nghĩ như thế. Hòa cùng tiếng hát của con tàu thơ Chế Lan Viên, một tiếng còi sương của Nguyễn Tuân, mái nhà sơn của Tố Hữu, “Ngói mới” của Xuân Diệu… đã góp thành sắc mới của thơ văn phản ánh màu mới của quê hương đất nước. Cuộc sống mới đã ngấm vào cảnh vật, và con hươn thơ như cũng lắng nghe tiếng còi sương. Cảnh vật có màu sắc, âm thanh dù là trong tâm tưởng.
Một tứ thơ xưa đọng lại nơi quãng sông càng làm tăng chất thơ: “Dải sông Đà bọt nước lên đênh. Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.” Nguyễn Tuân đã chọn câu thơ hết sức trữ tình của nhà thơ quê hương sông Đà, sống hết lòng với sông Đà. Câu thơ ấy hòa với những câu văn đẹp như thơ của Nguyễn Tuân đã “đề thơ” vào sóng nước Đà giang như khẳng định sự tồn tại của một sinh thế có hồi, coi sông Đà như một bạn đồng hành? Đưa vào câu thơ của Tản Đà, đoạn văn, bỗng dậy lên hơi thở nồng ấm, quấn quýt của tình người, tình yêu. Tình đã nồng cho nên những câu văn tiếp theo chất chứa cảm xúc “nhớ thương”, ” lắng nghe những giọng nói êm êm”.
Có một sông Đà gầm thét, chảy trôi miên man giữa trời Tây Bắc vời vợi chất thơ của sông núi, và có một sông Đà trong văn Nguyễn Tuân chảy vào lòng người. Văn chương đã làm cho thiên nhiên đẹp lên bội phần. Con sông Đà sẽ mãi đồng hành cùng với con người cũng như áng văn đẹp của Nguyễn Tuân sẽ luôn là hành trang của mỗi người, của dân tộc đi tới trong cuộc sống hôm nay.
Phân tích đoạn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… mình dây cổ điển trên dòng trên” – Mẫu 5
Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài hoa, nhà văn nổi tiếng trong cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Ông đã để lại cho chúng ta một sự nghiệp văn học phong phú với nhiều tác phẩm như Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1939), Quê hương (1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Tùy bút I, Tùy bút II (1943), Tóc chị Hoài (1943), Nguyễn (1945), Chùa Đàn (1946), Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Tùy bút kháng chiến và hòa bình I (1955), Tùy bút kháng chiến và hòa bình II (1956), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), Kí (1976), Chuyện nghề (1976),… Đặc biệt bài tùy bút Người lái đò sông Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo và tài hoa của nhà văn Nguyễn Tuân trên bước đường đi tìm vẻ đẹp của cảnh và người Tây Bắc – “chất vàng mười” của tâm hồn. Trích đoạn trong đề bài là một đoạn của tùy bút.
Trước đoạn văn này, tác giả trình bày mục đích chuyến đi thực tế Tây Bắc và sông Đà của mình là để tìm hiểu những con người ở đây mà ông gọi là “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của cách mạng và kháng chiến, hiện nay đang góp phần vào việc kiến thiết Tây Bắc. Tiếp đến, tác giả giới thiệu tâm trí tuyệt vời của những người lái đò sông Đà, đồng thời liệt kê một loạt con thác của sông Đà từ Vạn Yên về xuôi, trong đó có những con thác vô cùng “độc dữ, nham hiểm”. Sau đó, nhà văn khám phá tính chất hung bạo và trữ tình của sông Đà. Đặc biệt là miêu tả hình tượng ông lái đò với tư cách một người lao động đầy trí dũng và một người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh. Sau cuộc thủy chiến ác liệt giữa người lái đò và con thác dữ, dòng sông Đà như trở lại bản chất trữ tình vốn có.
Trích đoạn trên đây miêu tả vẻ đẹp trữ tình và cảm xúc của du khách trên dòng sông ấy. Trước hết là vẻ đẹp trữ tình của một quãng sông êm ả. Nhà văn miêu tả một cách vô tư, khách quan kết hợp với vài suy nghĩ cá nhân: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Thêm vào đó, nhà văn chọn lọc, miêu tả nhiều hình ảnh đẹp, sắc nét: “Một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”, “một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”, “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương”.
Đặc biệt, nhà văn còn dùng thủ pháp so sánh tu từ, nhân hóa tu từ, điệp cấu trúc cú pháp: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Dùng các thủ pháp này, một mặt nhà văn miêu tả vẻ đẹp thi vị, hoang dại, cổ kính của dòng sông. Mặt khác, nhà văn gợi được thần thái của nó. Hơn nữa, nhà văn dùng những nét chấm phá rất tài hoa của nghệ thuật hội họa, điêu khắc. Dễ thấy nhất là gam màu nhạt tạo cảm giác trữ tình thơ mộng. Đó là màu xanh non của lá ngô đầu mùa, của nõn búp, của cỏ gianh đồi núi. Đó là màu trắng đục của sương đêm. Đó là màu nhung của đầu con hươu thơ ngộ. Đó là màu “trắng như bạc rơi thoi” của bụng cá. Vả lại, không gian nơi đây rất tĩnh mịch, hoang vắng (ngoại trừ thanh âm của “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sóng”).
Đã vậy, cách phối hợp thanh điệu, nhịp điệu của câu văn cũng rất tài hoa. Trong đoạn văn, các thanh bằng chiếm ưu thế, góp phần tạo nên cảm giác êm dịu, lắng đọng nơi chiều sâu cảm xúc. Chẳng hạn, câu mở đầu đoạn văn chỉ toàn thanh bằng: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”.
Bên cạnh đó, thưởng thức đoạn văn chúng ta còn bắt được mạch cảm xúc của du khách – nhân vật trữ tình – trên sông Đà. Cụ thể là sự rung động mãnh liệt trước vẻ đẹp ngây ngất của thiên nhiên và chiêm ngưỡng vẻ đẹp ấy bằng đôi mắt của một người nghệ sĩ tài hoa. Nhìn cảnh ven sông lặng tờ, người nghệ sĩ liên tưởng tới quá khứ của quãng sông để so sánh, đối chiếu, khám phá ra vẻ đẹp hoang sơ, cổ tích, huyền thoại kì thú của nó cũng như vẻ đẹp trẻ trung, tươi tắn nảy nở, sinh sôi của cảnh vật thực tại. Hơn thế nữa, tình yêu thiên nhiên của người nghệ sĩ ấy rất nồng nàn, tha thiết, ở đây, có một hòa nhập cả tâm hồn mình vào thiên nhiên. Vì người nghệ sĩ ấy với thiên nhiên như một người bạn tri âm, tri kỷ nên rất thấu hiểu thiên nhiên. Thật vậy, tâm hồn nhân vật trữ tình như mơ màng lắng nghe cả tiếng hươu đang thủ thỉ: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đặc biệt, có sự thấu hiểu tâm trạng của dòng sông như thấu hiểu tâm tư, tình cảm cùa con người. Ấy là tâm trạng nhớ nhung da diết: “Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”. Đó là tâm trạng quyến luyến, mong mỏi được nghe giọng nói của con người: “Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”. Ấy là tâm trạng vui mừng, sung sướng, tự hào khi được làm bạn đủ loại ghe thuyền xuôi ngược trên sóng nước: “Con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.
Ngoài ra, với trí tưởng tượng lãng mạn, bay bổng, người nghệ sĩ ấy mượn hai câu thơ của thi sĩ Tản Đà để làm đẹp thêm cái thơ mộng tình tứ của sông Đà:
Dải sông Đà bọt nước lênh bênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.
Vả lại, chúng ta còn cảm nhận được niềm khao khát, mơ ước, hi vọng của người nghệ sĩ về một tương lai tốt đẹp cho vùng đất Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc: “Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên trên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”. Phải chăng đây cũng là khát vọng chân chính của biết bao văn nghệ sĩ cùng thời Nguyễn Tuân về sự thay da đổi thịt của Tây Bắc?
Nhìn chung, dù độc giả chỉ thưởng thức một đoạn văn ngắn của bài tùy bút Người lái đò sông Đà nhưng vẫn cảm nhận được rất rõ nét phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn Nguyễn Tuân. Tiêu biểu là phong cách “ngông” thể hiện ở sự tài hoa, uyên bác, lịch lãm trên câu chữ. Tuy tùy bút là một thể văn nhưng chúng ta thấy nhà văn còn phối hợp kiến thức của nhiều môn nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh, địa lí, lịch sử, sinh học, văn hóa, phong tục, võ thuật,…
Kiêng trích đoạn trên, sự am hiểu về hội họa, điêu khắc, động vật học, thực vật học, lịch sử học, địa lí học, mỹ học đã giúp nhà văn cảm nhận, đánh giá đúng vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc. Ở đây, sông Đà được miêu tả như một công trình thiên tạo tuyệt vời, đẹp trong chất thơ trữ tình, da diết. Mặt khác, nhà văn còn nhìn sự vật ở chiều lịch sử, gắn quá khứ, hiện tại với tương lai. Hơn nữa, vốn ngôn ngữ của nhà văn rất giàu, nhiều từ ngữ có giá trị tạo hình biểu cảm cao độ có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng như muốn ganh đua với tài hoa của tạo hóa. Phải là một người nghệ sĩ yêu nước da diết, có trí tưởng tượng đa dạng, phong phú, biết khám phá mê say, thưởng thức cái đẹp kỳ thú của tự nhiên mới có được những trang viết dạt dào khoái cảm thẩm mỹ đến thế!
Trên đây là một trong những trích đoạn đặc sắc nhất của tùy bút Người lái đò sông Đà. Cả tác phẩm cũng như trích đoạn đã khơi dậy trong lòng chúng ta tình yêu thiên nhiên, đất nước mãnh liệt, yêu những con người lao dộng chân chính, hăng say và đặc biệt càng thêm yêu vùng đất Tây Bắc xa xôi nhưng giàu tiềm năng của Tổ quốc Việt Nam.
Phân tích đoạn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… mình dây cổ điển trên dòng trên” – Mẫu 6
Xem thêm : Năm 2008 là năm con gì? Sinh năm 2008 là mệnh gì? Tuổi gì?
Nếu có một buổi tôi hỏi “Anh biết Nguyễn Tuân không ?”, anh đáp “Biết !” nhưng nếu tôi thêm “Anh biết tác phẩm Sông Đà không ?”, anh trả lời “Không !” thì tôi tin mình đã có đủ cơ sở để khẳng định lời anh thiếu chính xác. Thật thế, nói đến Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám, người ta phải nhắc Vang bóng một thời cũng như sau cách mạng tháng Tám, nhắc đến Nguyễn Tuân người ta không thể quên tập tùy bút Sông Đà của ông.
Thông qua Sông Đà, bằng ngòi bút tài hoa, già dặn của mình, Nguyễn Tuân không chỉ phác họa được bức chân dung ông lái đò trên sông Đà, bức chân dung người lao động trên sông nước được nâng lên ngang tầm nghệ sĩ, mà còn đem đến con sông Đà một cái hồn người thực sự: cũng biết vui, buồn, giận dỗi, phẫn nộ, nhớ thương… Nhưng, gấp lại trang sách, đọng lại trong tôi vẫn là đoạn này: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… trên dòng trên”.
Sau những đợt gầm rung giận dữ, sóng vỗ tung bờ, sau những trận “làm mình mẩy” với con người Tây Bắc, con sông Đà lại trở về với cái đằm thắm, hiền hòa cố hữu của nó: “Cảnh sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng lờ đến thế mà thôi”. Câu văn đọc nghe cứ êm trải, mênh mang…, mênh mang như chính những gợn sóng trên sông Đà. Tôi dám cuộc rằng, nếu tác giả chỉ phác họa cảnh “lặng lờ” không thôi, người đọc cũng đủ hình dung ra cái tĩnh lặng của dòng trôi, cùng lắm như con sông quê nội, quê ngoại mình hay như con sông trước ngõ nhà mình. Song, ở đây Nguyễn Tuân đã viết thêm:
“Hình như từ đời Lí, đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng lờ đến thế mà thôi”. Con sông bây giờ không hẳn chỉ là của hiện tại, mà nó trôi ngược về ạuá khứ. Bởi người ngắm nó – người đang lênh đênh giữa dòng sông, đang chìm trong hoài niệm, mạch cảm xúc bơi ngược về với lịch sử dân tộc. Nguyễn Tuân cho phả vào câu chữ của mình, phủ lên bề mặt con sông Đà một lớp sương khói huyền hoặc, mơ hồ, xa xăm, đẹp và thơ mộng lạ kì. Bỗng dưng tôi nhớ mấy câu ca dao:
Mịt mù khỏi tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tăy Hồ.
Cũng là lãng đãng khói sương, nhưng rõ ràng không gian mặt hồ bị cô lập và có giới hạn hơn không gian con sông Đà của Nguyễn Tuân.
Vẫn miên man trong mạch xúc cảm đằm sâu, ta có cảm giác con người tác giả đang hiện diện đâu đó trên con sông Đà đã nhập thân làm một với cỏ cây sóng nước, để cho hiện dần lên trước ống kính những vẻ đẹp cụ thể gợi cảm. Đúng vậy ! Phải là người của cảnh này, tình này mới có được những hình ảnh nào là “nõn búp”, “búp có tranh”, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”, nào là “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương”, “một tiếng còi sương”, rồi “đàn cá quẫy vọt bụng trắng như bạc rơi thoi”… cùng cái dáng dấp “lững lờ như nhớ như thương những hòn đá thác xa xôi” của con sông Đà… Một loại những sắc màu, hình ảnh, một loạt những so sánh ví von khiến người đọc phải thích thú cảm phục người cảm phục người cầm bút. Song, đọc kĩ lại ta mới hay rằng Nguyễn Tuân không chỉ muốn người đọc tâm phục đôi mắt nghệ sĩ có một không hai của mình mà chắc rằng, đằng sau một loạt ngôn từ sáng tạo tài hoa đó là cả một thực thể nguyên khai như “nụ sữa” thuần khiết. Ngẩm lại mà xem, từ ” nõn búp” đến “búp có tranh” là một cái gì rất tươi non, e ấp, đến “con hươu thơ ngộ”, bờ sông “hoang dại như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nổi niềm cổ tích tuổi xưa”… đều là những cái ban đầu, băng trinh, nguyên sơ… Và đằng sau, những dáng vẻ, những thực thể, màu sắc ấy, người ta còn thấy một sức sống ngồn ngộn, tươi rói, trẻ trong đang ẩn nấp, đang ngầm sinh sôi, chuuyển động, kết giao… Bắt được cái thần thái của cảnh vật, đòi hỏi cảm xúc Nguuyễn Tuân phải tinh tế đến cỡ nào. Chính xác hơn, như trên đã nói Nguyễn Tuân đã hòa mình vào thiên nhiên, vào trời mây non nước sông Đà, để thay mặt nó, ra trạng thái trinh nguyên của nó. Có thể hiểu rằng, Nguyễn Tuân không tả cảnh quan sông Đà hoàn toàn theo cái nhìn chủ quan của người ngắm mà còn tả bằng đôi mắt khách quan như bản thân con sông Đà hiện có.
Đoạn văn trích cho ta thấy được vẻ đẹp thơ mộng tiềm tàng sức sống của sông Đà, xúc cảm rất chân thành của người ngắm cảnh và một lần nữa, buộc ta phải khâm phục, ngưỡng mộ ngòi bút tài hoa tài tử của Nguyễn Tuân, những chữ nghĩa, ví von có hồn có mắt được nâng niu, cẩn thận góp nhặt qua ” hàng trăm tuần trà, hàng ngàn lần dạo phố Hà Nội, đi Đông đi Tây chắt lọc lại, giữ lại cho chúng ta”.
Tôi sinh ra và lớn lên ở miền Nam, uống ngụm nước ngọt của dòng Cửu Long phù sa hiền hòa, đọc văn Nguyễn Tuân sao tôi cứ thây ao ước, bồn chồn: ước một lần được đặt chân đến với con sông đà, được chiêm ngưỡng vẻ đẹp có thật của một con sông ở miền Bắc Tổ quốc mình…
Mình cũng là người Việt Nam, cũng biết yêu mến và rung cảm với cái của non sông gấm vóc Việt Nam, biết đâu mình cũng có thể viết nên những dòng suy nghĩ đậm đà chất thơ theo tấm gương sáng tạo của tác giả tùy bút Sông Đà.
Phân tích đoạn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… mình dây cổ điển trên dòng trên” – Mẫu 7
Trong tâm thức của mỗi một con người Việt Nam, dòng sông luôn được xem là bóng hình quen thuộc và để lại nhiều dấu ấn không phai mờ. Chính vì vậy, trên mảnh đất về đề tài thiên nhiên trù phú, địa hạt viết về dòng sông luôn xuất hiện những tác phẩm xứng tầm kiệt tác. Một trong số những tác phẩm thể hiện rõ điều này là “Người lái đò sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân. Dưới ngòi bút của tác giả, sông Đà hiện lên như một nhân vật với hai tính cách: Hung bạo và trữ tình. Đoạn văn “Thuyền tôi trôi trên trên sông Đà…. trên dòng sông” đã thể hiện rõ vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của dòng sông.
Sau khi miêu tả về tính cách hung bạo, dữ dội của sông Đà qua các chi tiết về nước, đá, sóng, ở những quãng sông hẹp và những cái hút nước khủng khiếp, ngòi bút của tác giả đã tập trung miêu tả vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông. Nét dịu dàng đó đã được thể hiện qua dáng vẻ và tâm hồn. Với ngòi bút tài hoa, uyên bác cùng sự quan sát tinh tế, tác giả đã ví dòng sông với vẻ đẹp của một người thiếu nữ kiều diễm: “con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai”. Vẻ đẹp đó đã được cụ thể hóa hơn nữa thông qua những chi tiết quang cảnh ven sông. Với điểm nhìn từ con thuyền: “Thuyền tôi trôi trên sống Đà”, dòng sông đã được quan sát và miêu tả một cách chi tiết, cụ thể. Dưới ngòi bút của tác giả, quang cảnh ven sông hiện lên với sự êm đềm, tĩnh lặng: “Cảnh ven sông ở đây lặng như tờ”. Nguyễn Tuân đã vận dụng tối đa bút lực để phác họa những nét vẽ chi tiết về vẻ “lặng như tờ” đó hệt như một người họa sĩ tài hoa. Những hình ảnh về “một nương ngô mới nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “cỏ tranh đang ra những búp nõn” cho thấy cảnh vật được miêu tả qua vẻ đẹp của sự non tơ, tươi mới và tràn đầy sức sống. Giữa không gian thơ mộng, tĩnh lặng đó, chỉ có duy nhất hình ảnh một đàn hươu “cúi đầu ngốn búp cỏ tranh đẫm sương đêm” khiến cho thiên nhiên hiện lên trong mối giao hòa, gắn kết.
Bức tranh thiên nhiên hiện lên trong sự tươi mới, tinh khôi đã đưa tác giả vào một không gian mang đầy sự huyền ảo, “hoang dại như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Đằng sau những cảm nhận vô cùng tinh tế đó, chúng ta có thể thấy được tâm hồn của một người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác đã hòa mình vào thiên nhiên cùng mây trời non nước sông Đà. Tác giả đã cảm nhận hết vẻ tinh khôi, thần thái tràn trề sức sống của cảnh vật và bắt trọn từng khoảnh khắc và mọi chuyển động: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò”, rồi “hươu vểnh tai”. Hình ảnh này gợi cho chúng ta nhớ đến chú nai vàng trong những câu thơ của tác giả Lưu Trọng Lư:
“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
Chú hươu trong những câu văn của Nguyễn Tuân hay chú nai vàng đang lắng nghe “Tiếng thu” trong thơ Lưu Trọng Lư đều gợi lên sự tinh khôi, thuần khiết của thiên nhiên. Sau khi miêu tả quanh cảnh ven sông, tác giả tập trung miêu tả cảnh sắc dưới lòng sông. Hàng loạt những thực thể hiện lên với sắc màu và dáng vẻ khác nhau trong sự ví von, so sánh tinh tế và độc đáo: “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”. Và rồi dòng sông đã được nhân hóa với những nét tính cách của con người, trôi chậm như “nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”.
Như vậy, thông qua đoạn văn của tác giả Nguyễn Tuân, chúng ta có thể thấy được vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà nói riêng và của thiên nhiên Tây Bắc nói chung. Đồng thời thấy được tình yêu thiên nhiên cũng như những nét đặc sắc tiêu biểu trong phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân.
Phân tích đoạn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… mình dây cổ điển trên dòng trên” – Mẫu 8
Nhận xét phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, Anh Đức viết: “Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”. “Người lái đò sông Đà” có thể coi là một minh chứng sinh động cho nhận xét trên. Tác phẩm đã thể hiện những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân khi viết về thiên nhiên và con người Tây Bắc. Là một con người yêu thiên nhiên tha thiết, lại đam mê kiếm tìm cái đẹp, ông viết về cảnh sắc sông Đà với những phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi và sông, về cỏ cây trên một vùng đất nước bao la, hùng vĩ và thơ mộng. Đoạn văn: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà.. nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên” không chỉ là một bức tranh đẹp về dòng sông Đà trữ tình được họa bằng ngôn từ mà còn thể hiện những nét tài hoa độc đáo trong nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Tuân.
Với ngòi bút biến hóa linh hoạt, con sông Đà trong trang văn Nguyễn Tuân mang trong nó vẻ đẹp vừa hung bạo, vừa trữ tình. Khi ở thượng nguồn, con sông dữ dội, hung bạo bao nhiêu với “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”, với những cái hút nước xoáy tận đáy, với “nước thác nghe như oán trách, như van xin, giọng gằn mà chế nhạo”, với thạch trận đá đầy hiểm nguy.. thì đến đoạn hạ nguồn, dòng sông lại thơ mộng trữ tình bấy nhiêu. “Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bùng nở hoa ban, hoa gạo tháng hai”. Màu sắc của sông Đà cũng biến đổi theo các mùa trong năm, mỗi mùa là một sắc riêng. Mùa xuân nước “xanh ngọc bích”, còn mùa thu, nước sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ”.. Vẫn là dòng sông ấy, nhưng sau khi dòng sông “vặn mình vào một cái bến cát”, khi những bọt nước cuối cùng của sóng gió thượng nguồn “xèo xèo tan trong trí nhớ”, ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân đã dẫn người đọc đến một sông Đà êm đềm như một giấc mơ, dịu hiền như một miền cổ tích:
“Thuyền tôi trôi trên sông Đà” – câu văn chỉ toàn thanh bằng đã đưa con thuyền, nhà văn và người đọc vào cõi mơ êm đềm, yên ả, cõi hoang sơ vắng lặng như chưa hề có dấu vết của con người:
“Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Tính từ “lặng tờ” lặp lại tới hai lần tạo ấn tượng về sự hoang sơ, “nguyên thủy” của sông Đà. Cái hoang sơ, “nguyên thủy” như bao trùm không gian và trải dài theo thời gian. Cảnh như chưa từng có sự tác động của con người, nó gợi ta nhớ đến những khung cảnh huyền ảo, thơ mộng trong các câu chuyện cổ tích xa xưa.
Dõi ánh mắt ra xa, người khách sông Đà như đắm chìm trong những xúc cảm đầy thi vị khi thu vào tầm mắt là màu xanh đầy sức sống của “một nương ngô vừa nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”. Vậy ra, cảnh vật nơi đây cũng có dấu ấn của con người in trên màu xanh mỡ màng ấy, nhưng thật vô cùng ngạc nhiên, nơi đây tịnh “không một bóng người”. Chỉ có những búp nõn của đồi gianh đang trở mình vươn lên trùng điệp, nối tiếp. Hình ảnh đàn hươu xuất hiện “cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm” trên màu xanh bát ngát của bờ bãi là một nét vẽ tài hoa làm cho bức tranh thiên nhiên sông Đà đượm màu “hoang dại” và “cổ tích”. So với dòng sông khúc thượng nguồn, bờ bãi sông Đà quãng này thật yên bình, êm ả biết bao. Ngòi bút Nguyễn Tuân cũng giàu chất thơ, chất hội họa biết bao.
Hai câu văn tiếp theo ngỡ như những lời thơ đậm chất trữ tình:
“Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Với biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh và việc sử dụng từ ngữ một cách tinh thế tài hoa: “Bờ tiền sử”, “nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” – Nguyễn Tuân đã thơ mộng hóa, trừu tượng hóa cảnh vật, tạo ấn tượng trong lòng người đọc về bờ bãi Đà giang nguyên sơ, thuần khiết, yên bình. Nét độc đáo của Nguyễn Tuân là ông không dựa vào trực giác để so sánh vẻ đẹp đôi bờ sông Đà với những hình ảnh hữu hình cụ thể mà ông đã dùng tưởng tượng để tạo nên những liên tưởng, những so sánh giàu cảm xúc, giàu chất thơ nơi người đọc. Nào ai biết “bờ tiền sử” là bờ nào, “nỗi niềm cổ tích” là nỗi niềm gì? Sự liên hệ đúng là chỉ có ở Nguyễn Tuân – một người vốn ưa những câu chữ “độc lạ”.
Cảnh vật hoang dại và tĩnh lặng quá khiến người khách sông Đà bỗng “thấy thèm được giật mình một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái- Lai Châu” . Chi tiết này làm tăng lên cảm giác ảo giác như nhà văn đang lạc vào một cõi trong trẻo, an lành, không có thực của thế giới cổ tích. Ảo giác mạnh tới mức nhà văn bỗng thèm một âm thanh của cuộc sống hiện tại giúp nhà văn nhận ra rằng mình vẫn đang ở thế giới hiện thực, là con người trong nền văn minh hiện đại. Ông khách “thèm” một thanh âm rộn rã điểm tô cho khung cảnh yên bình này, và cũng là “thèm” về ánh sáng của thời đại chiếu rọi đôi bờ Đà Giang, đưa người đọc cùng ông bay lên cùng “ngọn gió ngày mai thổi lại..”. Khát vọng về một Tây Bắc phát triển đi lên hòa nhịp cùng thời đại mới của Nguyễn Tuân kín đáo gửi gắm nơi những dòng văn đầy chất thơ, chất lãng mạn này.
Hình ảnh chú hươu “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò” mà không hề giật mình sợ hãi vụt chạy đi.. vừa gợi lên vẻ đẹp thuần khiết, vừa tô đậm nét hoang sơ, yên bình của cảnh vật. Không những thế, nhà văn còn khéo léo vận dụng hiệu quả của nghệ thuật nhân hóa để tưởng tượng ra cuộc đối thoại hồn nhiên, trong trẻo giữa ông khách sông Đà và chú hươu thơ ngộ: Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng thấy một tiếng còi sương?” . Một giả định vừa thực vừa mộng ảo, siêu thực mà lãng mạn.
Có thể nói những nét vẽ của Nguyễn Tuân về đàn hươu núi là những nét vẽ tài hoa, độc đáo, đã gợi tả cái vẻ đẹp hồn nhiên hoang dại của đôi bờ sông Đà, đã tạo nên chất thơ, chất mộng ảo, dào dạt trong lòng người và thiên nhiên tạo vật. Câu chữ rất có duyên gợi lên cái hồn của cảnh vật: “Con hươu thơ ngộ”, “ngẩng đầu nhung”, “áng cỏ sương”, “chăm chăm nhìn”, “con vật lành”, “tiếng còi sương..”. Nguyễn Tuân đã nhìn thiên nhiên với cái nhìn phát hiện ở những chi tiết, dáng vẻ mang tính thẩm mĩ tài hoa.
Thật là chưa trọn vẹn nếu miêu tả sự tĩnh lặng của cảnh vật mà không tô điểm vào đó một vài thanh âm theo bút pháp “lấy động tả tĩnh” của thơ trung đại. Nguyễn Tuân đã rất tinh tế khi “tính toán” đến khía cạnh này. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà ông lại miêu tả chi tiết: “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến” . Có lẽ không một sự miêu tả trực tiếp nào lại khiến sự lặng tờ hoang dại của dòng sông hiện lên rõ nét đến thế. Chỉ tiếng cá đập nước thôi cũng đủ để đàn hươu giật mình! Và ông khách cũng như giật mình bước ra khỏi cõi mộng, trở về thực tại với con đò trôi xuôi, êm ái, lặng tờ.
Càng về hạ nguồn, không gian sông Đà càng rộng thêm ra, dòng sông mênh mông hơn, êm nhẹ hơn: “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” (Tản Đà). Việc dẫn thơ của Tản Đà không chỉ mang lại chất trữ tình cho trang văn Nguyễn Tuân mà còn góp phần tô đậm vẻ đẹp yên bình và có phần kì vĩ của dòng sông những quãng xuôi chèo êm ả.
Nhìn dòng sông nước chảy “lững lờ”, nhà văn như cảm nhận được tâm trạng của dòng sông. Ông cảm thấy nó vừa “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc” lại vừa “như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên” . “Con đò mình nở chạy buồm vải”, “con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển”, là nhận xét, là cách tả, là cách dùng từ rất độc đáo của Nguyễn Tuân. Ngay đến những con đò “phụ họa” trong bức vẽ Đà giang cũng được tạo hình một cách chi tiết, cụ thể đến thế khiến ta phải nể phục cho bút lực và sự công phu trong sáng tạo nghệ thuật của tác giả.
Dường như, với mỗi câu, mỗi chữ của mình, Nguyễn Tuân đều tạc linh hồn vào dòng sông, vào con đò, vào cảnh vật – khiến chúng không còn vô tri vô giác mà mang những xúc cảm rất con người. Biệt tài của Nguyễn Tuân là sử dụng những so sánh ẩn dụ, những nhân hóa trùng điệp.. để mang đến người đọc những trang văn tuyệt diệu nhất, khơi dậy ở người đọc những liên tưởng thú vị nhất.
Qua cách nhà văn tạc họa dòng sông, người đọc nhận thấy nơi ông một tình yêu sông núi thiết tha, một cái nhìn đằm thắm nồng hậu, một sự lắng nghe trìu mến yêu thương ông hướng về thiên nhiên, cuộc đời. Nguyễn Tuân như đang mở rộng lòng mình, tâm hồn mình với dòng sông, để cùng với nó mà “lắng nghe”, mà nhớ thương, những âm vang, những nhịp sống ấm áp của cuộc đời. Từ đó, qua câu chữ, ta cảm thấy có một dòng sông đang êm trôi, đang lững lờ trong tâm hồn mình, bát ngát mênh mông.. Văn Nguyễn Tuân không chỉ đem đến cho ta bao nhã thú mà còn để lại nhiều dư vị, dư ba là vậy!
Phần văn bản trích trên đây chỉ là một đoạn ngắn trong bài tùy bút “Người lái đò Sông Đà”. Đoạn văn tái hiện vẻ đẹp thơ mộng trong trạng thái tĩnh lặng, yên bình của cảnh sông nước Đà giang khúc hạ nguồn. Tuy vậy, ta vẫn cảm được cái hay, cái đẹp trong cách miêu tả cảnh vật của văn phong Nguyễn Tuân. Đoạn văn ghi nhận những nét độc đáo trong ngòi bút miêu tả nhiều khám phá, sáng tạo và kiến tạo trong tạo hình, dựng cảnh, trong dùng từ ngữ độc lạ, cách kiến tạo câu văn khi co khi duỗi nhịp nhàng. Ngòi bút Nguyễn Tuân còn biến hóa liên tục với những hình ảnh nhân hóa, so sánh, những liên tưởng độc đáo thú vị.. Chất thơ, chất họa, chất văn chương hòa quyện, giao thoa.. chuyển đến người đọc những cảm giác mới lạ. Có thể nói, từng câu, từng chữ mà ông đặt lên trang giấy là cả một quá trình sáng tạo công phu, cẩn trọng và thiêng liêng. Nguyễn Tuân thích sáng tạo, độc đáo cả trong đời thực lẫn trong văn chương. Nhà nghệ sĩ lớn ấy đi săn tìm cái đẹp suốt cả cuộc đời để rồi mang lại cho ta “chất vàng mười” của thiên nhiên Tây Bắc. Đọc “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân, chúng ta thực sự bị cuốn hút vào dòng thác của cuồn cuộn của sông chữ, sông đời; thực sự như bị lạc vào “bờ sông hoang dại như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
*************
Trên đây là 8 bài văn mẫu Phân tích đoạn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… mình dây cổ điển trên dòng trên” trong Người lái đò Sông Đà lớp 12 hay nhất. Hy vọng sẽ là tài liệu hữu ích để các em trau dồi vốn từ, củng cố kỹ năng viết văn của mình ngày một hoàn thiện hơn.
Đăng bởi: thcs Hồng Thái
Chuyên mục: Giáo Dục
Bản quyền bài viết thuộc Trường THCS Hồng Thái Hải Phòng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: Trường thcs Hồng Thái (thcshongthaiad.edu.vn)
Nguồn: https://thcshongthaiad.edu.vn
Danh mục: Tra Cứu