3 Đề đọc hiểu Lấy chồng chung (Hồ Xuân Hương) đầy đủ đáp án
- Ghi chữ Đ sau mô tả đúng, chữ S sau mô tả sai về vai trò của ngành chăn nuôi trong nền kinh tế nước ta. | SBT công nghệ 7 chân trời
- Hãy nêu một số đặc điểm thể loại nổi bật của truyện khoa học viễn tưởng. | SBT Ngữ Văn 7 tập 1 cánh diều
- Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong ca dao
- Các tác phẩm trong hình dưới đây có được xem là tác phẩm lịch sử không? Giải thích. Em hãy rút ra vai trò của lịch sử với ngành khoa học tự nhiên thông qua các tác phẩm này. | SBT Sử 10 Chân trời sáng tạo
- After all is said and done, more is said than done
3 Đề đọc hiểu Lấy chồng chung (Hồ Xuân Hương) đầy đủ đáp án chi tiết được thầy cô trường thcs Hồng Thái tổng hợp từ các đề thi Ngữ Văn lớp 10 sẽ giúp các em có thêm nhiều tư liệu hữu ích phục vụ quá trình ôn tập trước khi bắt đầu kì thi sắp tới. Hy vọng với 3 đề Lấy chồng chung đọc hiểu dưới đây, các em sẽ trả lời đúng hết các câu hỏi trong bài thi nhé.
Bạn đang xem: 3 Đề đọc hiểu Lấy chồng chung (Hồ Xuân Hương) đầy đủ đáp án
Bài thơ Lấy Chồng Chung (Hồ Xuân Hương), tác giả nói về cảnh lấy chồng chung. Đầu thơ nói về kẻ đắp chăn kẻ lạnh lùng, chán cái cảnh chồng chung, năm ở mười thì hay chăng chớ, một tháng vài lẫn có cũng như không. Bài thơ còn viết sự cam chịu cố đấm ăn xôi nhưng lại hỏng, có bằng làm mướn mướn không công.
Đọc hiểu Lấy chồng chung – Đề số 1
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
Lấy Chồng Chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm chừng mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng
Cầm bằng làm mướn mướn không công
Nỗi này ví biết dường này nhỉ
Thời trước thôi đành ở vậy xong
(Làm lẽ – Hồ Xuân Hương)
Bạn đang xem: 3 Đề đọc hiểu Lấy chồng chung (Hồ Xuân Hương) đầy đủ đáp án
Câu 1. Xác định thể thơ của bài Lấy Chồng Chung?
Lời giải:
Thể thơ của bài Lấy Chồng Chung là Thể thơ 7 chữ
Câu 2. Bài thơ viết về hiện tượng nào trong xã hội phong kiến?
Lời giải:
Bài thơ viết về hiện tượng nhiều người phụ nữ chung một chồng, đa thê, trọng nam khinh nữ trong xã hội phong kiến xưa.
Câu 3. Em hiểu thế nào về câu thơ “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”?
Lời giải:
Câu thơ này nêu lên hiện tượng rằng những người phụ nữ phải chịu cảnh chồng chung, không được chồng yêu thương và chịu cả cuộc đời bị ghẻ lạnh, không có hạnh phúc.
Câu 4. Nêu nhận xét của em về 2 câu thơ 5 – 6?
Lời giải:
Hai câu thơ năm và sáu đã truyền tải hình ảnh về việc người phụ nữ bị bó buộc phải lấy chồng trong xã hội phong kiến xưa dù không muốn. Và rồi khi lấy chồng rồi thì họ cũng chẳng hề được hưởng hạnh phúc. Cùng với đó, họ phải chịu số phận lao động khổ sở, cực nhọc.
Câu 5. Nêu nghệ thuật đặc sắc của bài thơ Lấy Chồng Chung?
Lời giải:
Giọng thơ mỉa mai, chua chát, mạnh mẽ của nhà thơ về số phận lấy chồng chung của chính mình cũng như của biết bao những người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến xưa.
Hình ảnh giàu sức gợi: kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng, cố đấm ăn xôi, cầm bằng làm mướn
Câu 6. Hồ Xuân Hương muốn gửi gắm điều gì qua bài thơ?
Lời giải:
Hồ Xuân Hương muốn gửi gắm được nỗi lòng chua chát, đau khổ của bà cũng như của những người phụ nữ chịu kiếp chồng chung trong xã hội phong kiến xưa.
Đọc hiểu Lấy chồng chung – Đề số 2
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
Lấy Chồng Chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm chừng mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng
Cầm bằng làm mướn mướn không công
Nỗi này ví biết dường này nhỉ
Thời trước thôi đành ở vậy xong
(Làm lẽ – Hồ Xuân Hương)
Câu 1. Nêu đề tài, chủ đề của văn bản. Tìm trong ca dao những văn bản có chung chủ đề.
Lời giải:
– Đề tài của văn bản trên nói về người phụ nữ
– Chủ đề của văn bản trên: bộc lộ nỗi niềm tâm trạng của người phụ nữ trong kiếp “lấy chồng chung”.
– Sưu tầm trong ca dao những văn bản cùng chung chủ đề:
+ Đói lòng ăn nắm lá sung
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng
+ Lấy chồng làm lẽ khổ thay
Đi cấy, đi cày chị chẳng kể công
Tối tối chị giữ mất chồng
Chị cho manh chiếu, nằm không chuồng bò
Mong chồng, chồng chẳng xuống cho
Đến khi chồng xuống, gà o o gáy dồn
Chém cha con gà kia, sao mày vội gáy dồn
Để tao mất vía kinh hồn về nỗi chồng con.
+ Thân em làm lẽ chẳng về
Có như chính thất, ngồi lê giữa giường.
+ Chia từ cây cải chia ra
Chia cửa, chia nhà, chia sáng, chia đêm
Giường chị, chị ngồi đã yên
Giường tôi chị lại, chị liền đánh ghen.
Xem thêm : Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà
Câu 2. Tìm và phân tích hiệu quả nghệ thuật của các thành ngữ được sử dụng trong văn bản.
Lời giải:
– Văn bản sử dụng nhiều thành ngữ dân gian: Năm thì mười họa, Một tháng đôi lần, Cố đấm ăn xôi, Làm mướn không công.
– Cách sử dụng thành ngữ rất tự nhiên, khéo léo, vừa tạo cho lời thơ sự đăng đối, nhịp nhàng; vừa nhấn mạnh vào cái ít ỏi, thưa thớt, hụt hẫng trong hạnh phúc lứa đôi, cái hẩm hiu, thua thiệt trong duyên phận của người con gái mang thân đi làm lẽ người ta. Bởi đi làm lẽ nên càng cố mong chút tình thừa của người mà thất vọng, đắng cay. Người phụ nữ bẽ bàng nhận ra thân phận của mình chỉ như kẻ làm thuê, bị giam lỏng trong ngục thất gia đình để tuổi xuân phí hoài theo năm tháng. Lời thơ đượm nỗi chua cay, xót đắng.
Câu 3. Viết một đoạn văn ngắn (khoảng 10 – 12 câu), nêu cảm nhận của anh/chị về cảnh ngộ éo le của nhân vật trữ tình trong bài thơ.
Lời giải:
– Về hình thức:
- Số đoạn: 1 đoạn
- Số câu: 10 – 12 câu
- Kĩ năng làm văn: viết đoạn văn
-Về nội dung:
- Cảnh ngộ éo le của nhân vật trữ tình trong văn bản: cảnh ngộ làm lẽ, bị hắt hủi, lạnh lùng, trở thành kẻ làm mướn không công cho nhà chồng.
- Bày tỏ sự cảm thông, sẻ chia với cảnh ngộ éo le của nhân vật, phê phán xã hội phong kiến với hủ tục đa thê, trọng nam khinh nữ… đã đẩy người phụ nữ vào tình cảnh cay đắng, tủi cực.
Đọc hiểu Lấy chồng chung trắc nghiệm – Đề số 3
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
Lấy Chồng Chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm chừng mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi xôi lại hỏng
Cầm bằng làm mướn mướn không công
Nỗi này ví biết dường này nhỉ
Thời trước thôi đành ở vậy xong
(Làm lẽ – Hồ Xuân Hương)
Chọn 1 đáp án đúng, từ câu 1 – câu 7:
Câu 1. Bài thơ nào của Hồ Xuân Hương cùng viết về cảnh làm lẽ với bài thơ trên:
A. Tự tình (bài 2)
B. Bánh trôi nước
C. Mời trầu
D. Quả mít.
Câu 2. Bài thơ nào không giống về thể thơ với bài thơ trên:
A. Tự tình (bài 2) – Hồ Xuân Hương
B. Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương
C. Cảm xúc mùa thu – Đỗ Phủ
D. Câu cá mùa thu – Nguyễn Khuyến
Câu 3. Đâu là thành ngữ dân gian trong bài thơ trên:
A. Năm thì mười họa, một tháng đôi lần
B. Năm thì mười họa, cố đấm ăn xôi
C. Một tháng đôi lần, cố đấm ăn xôi
D. Kẻ đắp chăn bông, cầm bằng làm mướn.
Câu 4. Câu thơ viết về sự bất công trong hôn nhân đa thê:
A. Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
B. Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
C. Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
D. Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Câu 5. Hai câu thơ Năm thì mười họa chăng hay chớ – Một tháng đôi lần có cũng không diễn tả điều gì?
A. Diễn tả gợi chuyện buồng the, chăn gối, hạnh phúc lứa đôi vợ chồng.
B. Diễn tả tâm trạng buồn tủi của người vợ lẽ khi bị vợ cả thị uy.
C. Diễn tả sự thưa thớt, họa hoằn của hành vi ái ân giữa chồng với vợ lẽ.
D. Diễn tả thái độ phản kháng mạnh mẽ vượt lên trên nghịch cảnh của Hồ Xuân Hương.
Câu 6. Dòng nào không liên quan đến nội dung biểu đạt của 2 câu thơ: Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm – Cầm bằng làm mướn, mướn không công:
A. Vì khát vọng một chút hạnh phúc lứa đôi nhỏ nhoi mà người đàn bà phải hạ mình “cố đấm ăn xôi”, chấp nhận mang thân đi làm lẽ.
B. Khi chấp nhận cảnh làm lẽ rồi, người vợ lẽ mới nhận ra bản chất xấu xa của chế độ đa thê.
C. Hai câu thơ diễn tả tâm trạng tủi nhục, uất hận của kiếp làm lẽ.
D. Hai câu thơ diễn tả sức sống mãnh liệt của Hồ Xuân Hương dù phải sống trong cảnh làm lẽ tủi cực.
Câu 7. Bài thơ khiến ta liên tưởng đến cảnh ngộ của Hồ Xuân Hương trong câu thơ nào sau đây:
A. Thân em vừa trắng lại vừa tròn – Bảy nổi ba chìm với nước non
B. Có phải duyên nhau thì thắm lại – Đừng xanh như lá, bạc như vôi
C. Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn – Trơ cái hồng nhan với nước non
D. Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại – Mảnh tình san sẻ tí con con.
Trả lời câu hỏi, từ câu 8 – câu 10:
Câu 8. Phân tích tác dụng của việc vận dụng thành ngữ trong bài thơ.
Lời giải:
Phân tích tác dụng của việc vận dụng thành ngữ trong bài thơ.
Xem thêm : Giải SBT bài 24: Thực hành chứng minh quang hợp ở cây xanh
– Thành ngữ được vận dụng trong bài thơ: Năm thì mười họa, cố đấm ăn xôi
– Tác dụng:
+ Việc vận dụng các thành ngữ dân gian Năm thì mười họa (thưa thớt, lúc có lúc không), cố đấm ăn xôi (cố nhẫn nhục, chịu đựng để theo đuổi, hi vọng điều gì đó) có tác dụng biểu đạt tình cảnh làm lẽ đáng thương của Hồ Xuân Hương – không được quan tâm đoái hoài đến dù bản thân đã cố nhẫn nhịn, chịu đựng nhưng không có kết quả gì.
Đồng thời sử dụng thành ngữ còn làm cho lời thơ thêm hàm súc, biểu cảm, mang sắc điệu dân gian..
Câu 9. Cảm nhận về tâm trạng, thái độ của chủ thể trữ tình thể hiện trong bài thơ.
Lời giải:
Cảm nhận về tâm trạng, thái độ của chủ thể trữ tình thể hiện trong bài thơ.
– Tâm trạng: Hồ Xuân Hương khi phải sống trong cảnh làm lẽ nhiều bất công đã cảm thấy vô cùng hụt hẫng, chua xót, bẽ bàng, thậm chí, đến cuối bài thơ, bà còn cảm thấy hối hận vì đã quyết định mang thân đi làm vợ lẽ.
– Thái độ: Bài thơ thể hiện thái độ phản kháng mãnh liệt của Hồ Xuân Hương đối với chế độ đa thê. Thái độ ấy được thể hiện ngay trong cách nói dữ dội: Chém cha cái kiếp lấy chồng chung..
Câu 10. Nêu những phương diện thể hiện tư tưởng nhân đạo của bài thơ.
Lời giải:
Những biểu hiện của tư tưởng nhân đạo trong bài thơ:
– Bài thơ thể hiện niềm tự thương cho chính mình của Hồ Xuân Hương, cũng là tiếng nói cảm thương cho những người phụ nữ phải chịu cảnh lấy chồng chung. Vì được trải nghiệm qua hai lần làm lẽ, nên nữ sĩ thấu hiểu hơn ai hết cảnh ngộ thiệt thòi, tủi hổ của kẻ phải làm vợ lẽ.
– Từ đó, bà cất lên tiếng nói tố cáo chế độ đa thê đã khiến người phụ nữ không có được hạnh phúc trọn vẹn.
– Bài thơ còn là tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc trọn vẹn cho những người phụ nữ bất hạnh trong xã hội bất công xưa.
Câu 11. Viết bài văn phân tích thân phận người phụ nữ thời phong kiến thông qua bài thơ làm lẽ
Lời giải:
Hồ Xuân Hương, con người có sức sống mãnh liệt, có ý thức cá nhân sâu sắc, khao khát hạnh phúc lứa đôi lại rơi vào tấn bi kịch đau lòng nhất của người phụ nữ: làm lẽ. Bà là đứa con của một người vợ lẽ. Rồi chính bà lấy chồng hai lần, cả hai lần đều làm lẽ. Tất cả những thảm cảnh làm lẽ của mẹ bà, của bà và của bao người đàn bà bất hạnh khác dưới chế độ đa thê đáng nguyền rủa trong xã hội phong kiến đã dồn nén lại thành một khôi thuốc nổ: bài thơ “Làm lẽ”. Bài thơ có sức công phá ghê gớm vào chế độ đa thê, lớn tiếng đòi quyền sống, đòi hạnh phúc lứa đôi cho người phụ nữ
Hồ Xuân Hương bị dồn nén, bị ấm ức với kiếp làm lẽ nên thơ mở lời đã bùng nổ:
“Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!”
Câu thơ mở đầu nói thẳng vào sự bất công trong hôn nhân, trong tình cảm “Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng” thì thật là tài tình. Hình tượng thơ gợi ngay đến chuyện buồng the, chăn gối, hạnh phúc lứa đôi vợ chồng. Và sự bất công giữa vợ cả, vợ lẽ hiện ra như núi đồi và vực thẳm. Kẻ “đắp chăn bông” ấm áp bao nhiêu thì kẻ “nằm suông ngoài nhà” lạnh bấy nhiêu. Mà cái lạnh của thể xác chưa thấm vào đâu với cái lạnh tinh thần, lạnh trong lòng, “lạnh lùng”.
Hồ Xuân Hương đã chửi thẳng vào cái kiếp lẽ mọn, chung chạ:
“Chém cha cái kiếp lẩy chồng chung”
Chửi cả bằng lời và bằng nhạc, câu thơ bảy chữ thì có bốn thanh trắc, dấu sắc (chém, cái, kiếp, lấy) sắc như gươm. Nhưng chửi rồi vẫn còn nguyên nỗi đau, ấy là “cái kiếp lấy chồng chung”. Chung cái không thể nào chung được, có đáng nguyền rủa không? Ca dao cũng đã cự tuyệt cảnh chồng chung:
“Đói lòng nằm gốc cây sung
Chồng một thì lấy chồng chung thì đừng”
Mà sao Xuân Hương là bậc trí giả mà không đủ sáng suốt để hai lần đều lâm vào cảnh “chồng chung”? Đó chính là chỗ đáng thương của người phụ nữ. Vì khao khát hạnh phúc lứa đôi nên biết rằng mình làm lẽ chẳng ra gì nhưng vẫn không “đừng” được.
Nữ sĩ Xuân Hương, nạn nhân của chế độ đa thê đã nói huỵch toẹt những bi thảm trong buồng the của “kiếp lấy chồng chung”:
“Năm thì mười họa hay chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không”.
Nhà thơ đã dồn hai thành ngữ “năm thì mười họa” và “gặp chăng hay chớ” thành một câu thơ lấp lửng thật hay: “Năm thì mười họa hay chăng chớ”. Câu thơ Đường đã trở thành câu thơ thuần Việt diễn tả sự thưa thớt, họa hoằn của hành vi ái ân giữa chồng với vợ lẽ. Có thể gọi ngôn ngữ Hồ Xuân Hương trong trường hợp này là ngôn ngữ mờ, diễn đạt mờ vì là chuyện khó nói. Vậy mà ai cũng hiểu, tài hoa Xuân Hương chính là ở đấy. Cách đây hơn trăm năm giữa một xã hội khô cứng, đạo đức giả mà có một phụ nữ đã nói to lên khát vọng của da thịt, của ái ân, của yêu đương thì phải nói là Hồ Xuân Hương đã đi trước thời đại rất xa. Có lẽ vì thế mà những thanh niên Pháp ngày nay đọc Hồ Xuân Hương đã cả quyết rằng nàng thơ đang sống cùng thời với họ!
Hồ Xuân Hương là người đàn bà có ý thức cá nhân sâu sắc, có bản lĩnh, lịch lãm mà vẫn không thoát khỏi tấn bi kịch “làm lẽ”? Có lẽ tấn bi kịch này không thuộc về phần ý thức, bản lĩnh, hay trí tuệ mà thuộc vào điều sâu thẳm trong tâm hồn của người đàn bà, mà Xuân Hương lại đàn bà hơn bất kì người đàn bà nào trên cõi đời này. Hãy lắng nghe nhịp tim đau đớn của người đàn bà đáng thương đáng kính này:
“Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công”.
Chỉ có Xuân Hương mới đủ can đảm và đủ tài hoa để vớ một thành ngữ mà lí giải hành vi dẫn đến bi kịch hôn nhân. “Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm”, từ hành vi vật chất, hiện tượng vật chất, tác giả gợi đến hành vi tinh thần, tâm trạng của một kẻ lẽ mọn. Từ cái mùi “hẩm” đến “buồn nôn” của xôi, nhà thơ đã gợi đến sự hẩm hiu của cảnh “chồng chung”. Cách cụ thể hóa cái trừu tượng như vậy rất gần với thi pháp dân gian. Vì khát vọng một chút hạnh phúc lứa đôi nhỏ nhoi mà người đàn bà phải hạ mình “cố’ đấm ăn xôi”, nhưng nhập cuộc rồi, người vợ lẽ mới nhận ra bản chất xấu xa của chế độ đa thê:
“Cầm bằng làm mướn, mướn không công”.
Vợ lẽ chẳng qua là một người “làm mướn”, một người ở, mà còn tệ hơn người làm mướn là “mướn không công”. Thật là hẩm hiu, tủi nhục. Những điệp từ “xôi, xôi”, “mướn, mướn” tạo ra âm điệu day dứt, đay nghiến, uất hận của kiếp làm lẽ.
Bài thơ kết thúc bằng lời tự nhủ chua chát:
“Thân này ví biết dường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong”.
Đây là một cách nhận thức lại, không hình ảnh, không bóng bẩy, chỉ phô diễn trực tiếp ý tưởng của một đời làm lẽ. Người đàn bà thuộc vào hàng trí giả như Xuân Hương cũng không thể hình dung hết những điều cay nghiệt của “kiếp lấy chồng chung”. Bà ngậm ngùi mà nghĩ rằng “Thà trước thôi đành ở vậy xong”. Người đàn bà với thiên chức làm vợ, làm mẹ mà “ở vậy” là bi thảm nhất, vậy mà làm lẽ lại còn bi thảm hơn. Thế mới càng thấy “kiếp lấy chồng chung” cay nghiệt đến chừng nào!
Bài thơ “Làm lẽ” hay ở tình cảm chân thành, nồng nàn, tư tưởng sâu sắc, tinh thần phản kháng quyết liệt. Nghệ thuật diễn đạt tài tình, những điều khó nói của “kiếp lấy chồng chung” nhà thơ đã nói một cách thanh tao, gợi cảm. Những thành ngữ tiếng Việt đã chắp cánh cho thơ Xuân Hương, thuần hóa thơ Đường thành một hình thức thơ giàu âm điệu dân tộc.
Với bài thơ “Làm lẽ”, chế độ đa thê của xã hội phong kiến đã bị một đòn trí mạng. Để nói lên những bất công trong chế độ đa thê, để đòi quyền sông, quyền hạnh phúc lứa đôi, Hồ Xuân Hương đã phải trả giá cả cuộc đời của mình. Cho nên càng nghĩ càng cảm thấy yêu mến, kính nể Hồ Xuân Hương, người đàn bà kì bí, “Bà Chúa Thơ Nôm” (Xuân Diệu) trong nền văn học của nước nhà.
*******************
Trên đây là 3 đề đọc hiểu Lấy chồng chung thường gặp trong các bài thi học kì. Các em hãy ôn luyện thật kỹ để trả lời đúng các câu hỏi trong bài thi sắp tới nhé. Chúc các em thi thật tốt và đạt điểm cao.
Đăng bởi: thcs Hồng Thái
Chuyên mục: Giáo dục
Bản quyền bài viết thuộc Trường THCS Hồng Thái Hải Phòng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: Trường thcs Hồng Thái (thcshongthaiad.edu.vn)
Nguồn: https://thcshongthaiad.edu.vn
Danh mục: Tra Cứu