Đề bài: Từ trái tim lan tỏa: Sự cảm nhận thăng hoa từ bài thơ ‘Ông đồ’
I. Mẫu số 1
Vũ Đình Liên (1913-1996) – một nhà giáo, một người viết văn và làm thơ – sẽ mãi vang danh trong lòng chúng ta. Ông tỏa sáng trong phong trào Thơ mới với bài thơ đầy ẩn ý “Ông đồ”, được thể hiện qua ngôn ngữ ngũ ngôn trường thiên với 20 câu thơ đầy tinh tế.
- Năm 1993 là năm con gì? Sinh năm 1993 là mệnh gì? Tuổi gì?
- Phân tích vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con Sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà
- Đoạn văn giới thiệu về bản thân em bằng tiếng việt lớp 6 hay nhất (24 Mẫu)
- Các đề đọc hiểu Tuyên ngôn độc lập
- Viết đoạn văn ngắn (từ 8 đến 10 câu) nêu tình cảm, cảm xúc trước một cảnh đẹp của đất nước Việt Nam. | SBT Tiếng Việt 3 Chân trời sáng tạo
Trong bài thơ, tâm hồn của ông được lồng ghép một cách tuyệt vời, tràn đầy lòng nhân hậu và tình yêu thương đối với con người. Ông đồ, những người hiền triết, không chạy theo vị trí cao quý để làm quan, nhưng lại gắn bó với nghề dạy học, truyền đạt tri thức “chữ nghĩa Thánh hiền”. Nhà thơ mô tả ông đồ như những nhà nho tài hoa, xuất hiện vào thời kỳ “hoa đào nở”, khi đường phố rực rỡ người qua lại. Ông đã trải qua những ngày tháng đẹp, những kỷ niệm tuyệt vời:
Bạn đang xem: Khám phá tận cùng của tâm hồn trong bài thơ ‘Ông đồ’ của Vũ Đình Liên
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”
Hoa đào rực rỡ khoe sắc, giấy đỏ lấp lánh, mực Tàu đen nhánh, nét chữ bay lượn với tài hoa. Không gì tuyệt vời hơn được trầm mình trong niềm hân hoan và hạnh phúc này!
“Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tâm tắc ngợi khen tài”
Thời gian trôi đi, thế giới đã trải qua những thay đổi. Hán học, nguồn tri thức vốn hùng mạnh, đã dần tàn lụi trong xã hội bị chiếm đóng bởi phong kiến thực dân: “Thôi có ra gì cái chữ Nho – Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co…” (Tú Xương). Ông đồ già, với tài tử tấn bi kịch, đã không kịp đón nhận thời đại mới. Xưa kia, “phố đông người qua”, nhưng giờ đây “mỗi năm mỗi vắng”. Ngày xưa, “Bao nhiêu người thuê viết”, còn bây giờ “Người thuê viết nay đâu?”. Một câu hỏi đầy ngạc nhiên và đau đớn, khiến lòng người cảm thấy đồng cảm. Nỗi buồn, nỗi tủi từ tâm hồn ông đồ tràn ngập, như làm cho mực khô cứng và lưu lại trong “nghiên sấu”, như làm cho giấy đỏ nhạt màu “buồn không thắm”. Giấy đỏ và mực thấm đượm những nỗi đau khắc sâu trong trái tim con người và tình hình thế sự.
“Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…”
Cảnh vật buồn bã. Lòng người chứa đựng nỗi buồn vô tận. Vũ Đình Liên đã sắc bén viết nên hai câu thơ đặc sắc, làm rung động lòng người với đủ tình cảm thương xót.
Nỗi buồn từ trái tim người ta thấm sâu, lan tỏa khắp cảnh vật xung quanh. Dưới trời mưa bụi, “Ông đồ vần ngồi đáy” trông như bất động, lẻ loi và cô đơn: “Qua đường không ai hay”. Màu vàng của lá, sự nhạt nhòa của giấy, và cả cơn mưa bụi phủ kín trời đều tạo nên cảm giác u buồn, hụt hẫng trong lòng con người. Đó là một nỗi buồn lê thê, hòa quyện trong không gian xám xịt.
“Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay”.
Thơ xúc tích nhưng gợi lên vô vàn cảm xúc. Cảnh vật tàn tạ mênh mang, và lòng người tràn đầy sự thương xót và đau thương.
Kết thúc bài thơ là một câu hỏi biểu lộ nỗi buồn trống vắng, sự thương tiếc và xót xa. Hoa đào lại nở rực rỡ. Ông đồ già đi đâu, về đâu…
“Năm nay dào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Thương ông đồ cũng là thương một lớp người đã mãi lùi vào quá khứ. Thương ông đồ cũng là xót thương một nền văn hóa bị tan rã dưới sự áp đảo của thực dân. Sự đồng cảm và thương tiếc của Vũ Đình Liên dành cho ông đồ đã lan tỏa và thấm sâu vào từng câu thơ, vần thơ. Thủ pháp tương phản, kết hợp với biểu hiện nhân hóa và ẩn dụ, tạo ra những hình ảnh gợi cảm, tái hiện một phong cách nghệ thuật tinh tế và sâu sắc.
Bài thơ “Ông đồ” chứa đựng tinh thần nhân đạo tận cùng. “Theo đuổi nghề văn và viết được một bài thơ như thế đã đủ. Nghĩa là đã đủ để lưu danh với con người” (Hoài Thanh). Đó là những lời tốt đẹp nhất, sự trân trọng nhất mà “Thi nhân Việt Nam” đã dành cho Vũ Đình Liên và bài thơ kiệt tác “Ông đồ”.
Chúng tôi đã đề xuất một cách cảm nhận tiếp theo về bài thơ “Ông đồ”, và bây giờ, các bạn hãy chuẩn bị cho phần Bình giảng 2 khổ thơ trong bài Ông đồ cùng với phần Phân tích đoạn thơ: “Năm nay đào lại nở… Hồn ở đâu bây giờ?” trong bài thơ Ông đồ, để có thể hiểu sâu hơn về ý nghĩa của nó.
Chúng ta sẽ cùng nhau khám phá và tìm hiểu, để trong lòng chúng ta nảy sinh thêm những cảm xúc sâu sắc. Bởi vì bài thơ này đậm đà tình cảm, khiến con tim chúng ta rung động và chạm đến cảm xúc tinh tế. Hãy cùng nhau khám phá và khơi gợi trái tim mình bằng những cảm nhận sâu sắc về “Ông đồ”.
2. Mẫu số 2
Trong dòng thời gian vô tận, mọi thứ sẽ trôi vào quên lãng mờ mịt, để lại trong trái tim con người những nỗi tiếc nuối không thể quên. Đặc biệt, khi những vẻ đẹp tài hoa của quá khứ chỉ còn đọng lại như những dấu vết mờ nhạt. Lấy cảm hứng từ tình cảm ấy, bài thơ “Ông đồ” thể hiện một nỗi hoài niệm đau đáu, lòng thương cảm dành cho một giá trị tinh thần đang dần tàn lụi. Bài thơ là một chiếc gương phản chiếu sự giàu lòng thương người và lòng hoài cổ của Vũ Đình Liên.
Dưới tác động của phong trào Thơ mới, bài thơ “Ông đồ” thoát khỏi hai trụ cảm xúc chủ yếu của thời đó, đó là tình yêu và thiên nhiên. Trong khi những nhà thơ lãng mạn đắm chìm trong thế giới cá nhân, mong muốn vẽ nên hiện thực mà họ ước ao, say mê trong cõi mộng mơ, thì Vũ Đình Liên – một nhà trí thức tinh tế – đã bất ngờ quay đầu nhìn lại “di tích tiều tuỵ đáng thương của một thời”. “Ông đồ” – hình ảnh cuối cùng của tri thức Nho học đã tồn tại trong suốt hàng ngàn năm của triều đại phong kiến Việt Nam.
Sự sụp đổ của tri thức Nho học đã kéo theo cả một lớp người trở thành những nạn nhân đau khổ. Ông đồ trong tác phẩm của Vũ Đình Liên là một dấu tích cho một vẻ đẹp không bao giờ trở lại. Đó là hình ảnh đã sâu sắc vào tiềm thức của mọi người và chưa bao giờ tan biến hoàn toàn, đặc biệt là với những người có tâm trạng hoài niệm về vẻ đẹp quá khứ như Vũ Đình Liên. Khi ý nghĩa thượng tôn và thanh cao của tri thức đạo đức không còn được đánh giá, phải rời xa nền văn minh, đối diện với cuộc sống hàng ngày, chúng ta mới thực sự cảm nhận, giật mình và xót xa trước ánh hào quang rực rỡ của một thời. Tâm sự ấy đã được khắc sâu vào từng câu thơ, từng cung đường của bài thơ, tạo nên một sự kết hợp đồng cảm giữa nhân vật trữ tình và chính tác giả trữ tình.
Mỗi năm hoa đào lại nở rực rỡ Nhưng ông đồ già vẫn đứng đó Bên phố đông người qua lại. Trong đó, hiện lên những hình ảnh, những dấu ấn đã chạm sâu vào ký ức của một chàng thanh niên trẻ. Đó là vòng tuần hoàn của hoa đào, của ông đồ, của mực tàu và giấy đỏ, tạo nên một không gian văn hóa đặc biệt trong những ngày Tết đến, xuân về. Nhưng ta không thể không xót xa trước cảnh ông đồ phải sống lay lắt trên con đường kiếm sống của mình. Sự già nua đáng thương hay sự dạy dỗ sắp bị lãng quên? Trớ trêu thay, nơi ông có thể giữ lấy vẻ đẹp văn hóa, nơi ông có thể tìm kiếm sự sinh tồn lại chính là “bên phố đông người qua lại”. Hình ảnh của một người cô độc, lạc lõng, trơ trọi như bất lực trước sự khắc nghiệt của thực tại. Trong cuộc sống hối hả như dòng chảy, hình bóng của ông đồ vẫn đang vẽ, khắc trên từng chữ viết tài tình và tâm huyết của một đời người ngay giữa những chợ đời ồn ào.
Nhưng trong những hình ảnh đó còn chứa đựng một thông điệp sâu sắc về sự mất mát, sự mưu sinh và sự khắc nghiệt của thời gian. Ông đồ không chỉ đại diện cho chính bản thân một tri thức Nho học lụi tàn, mà còn là tiếng gọi từ tận cùng của tâm hồn, của những giá trị văn hóa và đạo đức đang bị lãng quên. Bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên đã chạm đến lòng người và khơi dậy những cảm xúc sâu thẳm về quá khứ và giá trị con người. Nó là một lời thán phục và sự hâm mộ đối với những người hi sinh, những tấm gương sống với niềm đam mê và trí tuệ cao quý, như ông đồ trong bài thơ.
Ông đồ đã trở thành biểu tượng của sự bất lực và nỗi đau của một thời đại. Bằng cách nhìn thấu tận cùng của tình huống, Vũ Đình Liên đã tạo nên một đề tài cảm động, gợi mở nhiều suy nghĩ sâu xa. Bài thơ kêu gọi chúng ta không quên những giá trị truyền thống và tôn vinh những người với tâm hồn cao cả, mặc dù họ có thể bị lãng quên bởi cuộc sống hiện đại và thay đổi thời đại.
Trong cảm xúc lẻ loi của ông đồ, ta cảm nhận được sự chênh lệch và phân cấp xã hội. Nhưng đồng thời, nó cũng thể hiện sự kiên trì, sự chịu đựng và tình yêu với văn hóa dân tộc. Ông đồ đã trở thành biểu tượng cho những con người không ngừng đấu tranh để bảo tồn và truyền bá những giá trị văn hóa, những nét đẹp tinh thần của quê hương.
Bài thơ “Ông đồ” là một lời nhắc nhở đầy xúc động về việc giữ gìn và trân trọng những giá trị tinh thần, văn hoá của dân tộc. Nó cũng là một tín hiệu đầy hy vọng, khích lệ chúng ta không ngừng khám phá và tôn vinh những nét đẹp văn hóa, những truyền thống tinh thần mà chúng ta có.
Vũ Đình Liên đã tài hoa tạo ra một tác phẩm đặc biệt, khắc sâu vào lòng người và truyền cảm hứng cho những người đọc sau này. Bài thơ “Ông đồ” không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật đẹp mà còn là một tấm gương sống động, thể hiện lòng tự hào và sự quý trọng đối với văn hóa và truyền thống của dân tộc.
Hãy để chúng ta tiếp tục giữ gìn và trân trọng những giá trị đó, để ông đồ và những người tương tự không bị lãng quên, để họ tiếp tục truyền bá những giá trị văn hóa đẹp đến thế hệ sau.
Hãy lắng nghe tiếng gọi của bài thơ Ông Đồ, hãy để nỗi niềm tiếc nuối và hoài niệm lan tỏa trong lòng chúng ta. Đó là một lời nhắc nhở về sự quý trọng của quá khứ, về việc không quên những người đã từng sống và hy sinh cho văn hóa, cho đạo đức và cho tình người.
Dòng thời gian vẫn tiếp tục trôi, nhưng chúng ta có khả năng làm cho những giá trị tinh thần không bị lãng quên. Hãy trân trọng và gìn giữ những nét đẹp văn hóa, những giá trị cao quý của dân tộc. Chỉ cần mỗi người chúng ta đều làm một phần nhỏ, chúng ta có thể tạo ra một tương lai tươi sáng hơn, một thế giới nơi ông đồ và những người tương tự không bị thời gian xóa nhòa.
Hãy để tâm hồn ta cháy bỏng, để lòng trẻ trung và hoài bão không bao giờ tàn phai. Hãy trân trọng những giá trị văn hóa và tinh thần mà chúng ta thừa hưởng từ tổ tiên. Và hãy đồng hành cùng những nhà thơ, những tâm hồn cao quý như Vũ Đình Liên, để chúng ta không bao giờ quên đi những giá trị thật sự quan trọng trong cuộc sống này.
Với sự đam mê và tình yêu với văn chương, hãy cùng nhau xây dựng một thế giới đẹp hơn, một thế giới nơi những ông đồ và những trái tim trữ tình không bao giờ phải trải qua cảm giác lạc lõng và bất lực.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay.
Đó là dư vang của một thời, nhưng cũng là hình ảnh đáng buồn trong sự chống chọi vô vọng, như một ánh nắng cuối ngày rực rỡ, bùng lên khi ngày đã sắp tàn. Cái cảnh xúm xít, chen lấn để mua một câu đối, một đôi chữ Nho mới đau đớn làm sao. Trong từng người ấy, có ai thật sự cảm thấy xót xa cho sự xuống cấp thảm hại của chữ Thánh Hiền – một giá trị tinh thần được đặt xuống ngang hàng với giá trị vật chất?
Dẫu rằng sự hiện hữu của ông đồ góp thêm nét đẹp truyền thống ấm cúng, trang trọng cho ngày Tết và nét chữ “như phượng múa rồng bay” kia cố níu kéo lấy chút thể diện cuối cùng, được mọi người thán phục, ngưỡng mộ nhưng tránh sao khỏi cảm giác bẽ bàng, sượng sùng? Nhưng cái danh dự còn sót lại nhỏ nhoi ấy cũng đâu tồn tại mãi, nó vẫn bị thời gian khắc nghiệt vùi lấp không thương tiếc.
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu.
Khổ thơ là một sự hụt hẫng trong ánh mắt kiếm tìm: “Người thuê viết nay đâu?”, là nhịp thời gian khắc khoải đến đau lòng: “Mỗi năm mỗi vắng”. Sự tàn lụi của nền văn hoá Nho học là một điều tất yếu, cái mới sẽ thay thế cái cũ, ánh hào quang nào trước sau cũng dần một tắt, bị lãng quên, thờ ơ trong dòng đời vất vả với những kế mưu sinh, nhưng hiện thực phũ phàng cũng khiến cho lớp hậu sinh như Vũ Đình Liên không khỏi ái ngại, tiếc thương khi trước mặt mình là một cảnh vật hoang vắng, đượm buồn.
3. Mẫu số 3
Ông đồ” là kiệt tác của Vũ Đình Liên, một tác giả nổi bật trong phong trào thơ mới. Bài thơ ngũ ngôn gồm 5 khổ để lại cho người đọc nhiều suy nghĩ về hình ảnh ông đồ từ khắc hoàng kim cho đến khi còn vang bóng.
Ông đồ thời xưa là những nhà nho, làm nhiệm vụ dạy học, ông đồ gắn liền với vòng lặp của thời gian:
“Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua”.
Xem thêm : Giới thiệu về Nguyễn Dữ, với Truyền kì mạn lục và Chuyện chức phán sự đền Tản Viên
Khi hoa đào nở, đó là thời gian mùa xuân sắp về, hình ảnh ông đồ xuất hiện. Ông lại làm công việc quen thuộc của mình, với tài năng ông “thảo những nét phượng múa rồng bay”. Nhiều người thuê ông viết và ai cũng khen ngợi tài năng của ông đồ.
Nhưng thời thế đã đổi thay, Hán học đang trong giai đoạn suy thoái trong thời gian thực dân nửa phong kiến. Câu thơ “Người thuê viết nay đâu?”, câu hỏi bâng quơ và đầy cảm thương. Giấy đỏ, nghiên mực – những hành trang gắn liền với ông đồ trên con đường tạo ra cái đẹp cho người đời – giờ đây cũng u buồn, lặng lẽ. Tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hóa để diễn tả nỗi buồn u sầu của những đồ vật vô tri vô giác. Không chỉ vậy, “người buồn cảnh có vui bao giờ”, nỗi buồn của ông đồ còn đủ sức lan tỏa vào không gian, khiến cho cảnh vật xung quanh cũng có gam màu tối, ảm đạm.
“Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay”
Cái tả cảnh này ngập tràn sự buồn bã. Những chiếc lá vàng rơi lả tả trên tờ giấy, cùng với màn mưa bụi bay ngoài kia, tạo nên một không gian u ám và tĩnh lặng. Nhưng nó cũng mang theo một tâm trạng sâng đau lòng, khiến trái tim người đọc cảm nhận được sự đắm say và xót xa.
Ông đồ – hình ảnh cô đơn và bỏ lại trong cảnh vắng lặng, gợi lên những tâm tư uẩn khúc của chính tác giả. Ông đồ vẫn kiên nhẫn ngồi đợi, trên con đường đông đúc mà không ai thèm quan tâm. Ông trở thành một hiện thân của sự bất lực, của những nỗ lực vụt tắt giữa thế giới vội vã, cũng như một hình ảnh tiêu biểu cho sự xuống cấp và lụi tàn của văn hóa truyền thống.
Bài thơ mang đến một cái nhìn sâu sắc về sự thay đổi của thời gian và sự mất mát trong cuộc sống. Ông đồ trở thành biểu tượng cho những giá trị tinh thần đang dần bị xao lạc và quên lãng. Nỗi buồn u tối của ông đồ chạm vào lòng người đọc, khiến chúng ta cảm nhận được sự tương phản giữa những người bận rộn với những âu lo cuộc sống và hình ảnh cô đơn, u buồn của ông đồ.
“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay.”
Nhưng giữa những trái tim đó, liệu có ai thực sự lắng đọng và cảm thấy xót xa trước sự thảm hại của chữ Thánh Hiền và sự mất mát của văn hóa truyền thống? Sự cô đơn và bất lực của ông đồ đã trở thành một lời cảnh tỉnh cho chúng ta, để chúng ta nhìn nhận và trân trọng những giá trị văn hóa, truyền thống của dân tộc.
Câu thơ đan xen tả cảnh, thể hiện tâm trạng u buồn của ông đồ, như một biểu tượng cho sự lạc lõng và cô đơn. Lá vàng rơi kết hợp với những giọt mưa, như những nỗi đau tê tái thấm vào tâm hồn của ông. Ông đồ vẫn đứng ngồi tại đó, con phố vẫn đông đúc, nhưng không còn ai để ý đến sự hiện diện của ông. Ông như cảm thấy mình lạc lõng, buồn bã giữa khung cảnh quen thuộc.
“Năm này, đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ”
Năm nay, ông đồ đã biến mất, nhưng cái đẹp, giá trị tinh thần đã tan biến. Những người xưa kia, những người thuê viết, và bất kỳ ai đã mãi cùng ông đồ, bây giờ họ đang ở đâu? Câu thơ văng vẳng như một tiếng than vương lên, ngọt ngào và chua xót đồng thời, nhắc nhở chúng ta về số phận đáng tiếc của ông đồ. Giá trị của cái đẹp đang dần bị lãng quên, câu hỏi đó như một lời nhắc nhở cho chúng ta, đừng quên quá khứ, văn hóa, vì chúng là bản sắc và tâm hồn của dân tộc.
Bài thơ Ông đồ gợi mở cho chúng ta một cảnh báo, một lời nhắc nhở đừng quên đi quá khứ, hãy trân trọng và bảo vệ những giá trị tuyệt vời của văn hóa, tinh thần, để không phải hối tiếc và nuối tiếc sau này. Hãy để ông đồ là một biểu tượng cho sự giữ gìn và gìn giữ những hồn nhiên và vẻ đẹp đích thực của chúng ta.
4. Mẫu số 4
Trong hình ảnh văn hóa dân tộc, những người Ông Đồ trong ngày Tết truyền thống đã thấm vào tâm hồn của mọi người. Họ mang trong mình một nét đẹp đậm chất tri thức và trí tưởng tượng phong phú. Mỗi dòng chữ mà những Ông Đồ viết cho những người tìm kiếm chữ đều mang một ý nghĩa riêng, nhưng cùng nhau, người Việt vẫn tin rằng xin may mắn theo ước nguyện trong năm mới để có một cuộc sống suôn sẻ. Tuy nhiên, có vẻ như những thay đổi hiện tại đã làm mờ đi phần nào nét đẹp ấy, và hình ảnh của Ông Đồ trong tâm trí được tác giả Vũ Đình Liên khắc sâu và rõ ràng.
Những người Ông Đồ là những người có khả năng viết chữ Nho một cách điêu luyện. Chữ Nho mang trong mình hình ảnh phong phú và ý nghĩa sâu sắc. Những người này đã được đào tạo và có nền học vấn tốt trong văn hóa nho giáo. Họ tiếp xúc với chữ Hán thông qua việc đọc và học nhiều thi và đỗ đạt được bằng vị, được công nhận. Những người này có thể kiếm sống bằng nghề viết thuê.
Mỗi khi hoa đào nở
Lại thấy những Ông Đồ già đi
Trên phố đông người qua lại
Bày mực và tàu giấy đỏ.
Những dòng thơ ấy mang đến cho ta một cảm xúc sâu sắc. Đó là hình ảnh Ông Đồ vẫn đứng đó, dù tuổi đã già đi. Họ trải mực lên giấy màu đỏ rực, trong cái phố đông người qua lại. Hình ảnh này đem đến cho chúng ta sự cảm thấy sự sống động, ngọt ngào và cũng buồn bã. Nó như một lời nhắc nhở về thời gian trôi qua, về những nét đẹp tuyệt vời mà những Ông Đồ đã tạo ra.
Bài thơ này gợi lên trong ta một sự cảm nhận sâu sắc về giá trị của văn hóa và truyền thống.Hãy trân trọng và gìn giữ những giá trị đẹp đẽ của văn hóa dân tộc. Trong từng nét chữ được Ông Đồ viết, chúng ta cảm nhận được một sự khát khao, một tình yêu sâu sắc dành cho truyền thống của quê hương. Mỗi năm, khi hoa đào nở rực rỡ, ta lại thấy những Ông Đồ đã già đi, nhưng những nét viết của họ vẫn còn nguyên vẹn trên tờ giấy đỏ tươi. Hình ảnh ấy khiến ta không chỉ bị cuốn hút bởi sự tài hoa của Ông Đồ, mà còn nhận ra rằng thời gian đã thay đổi và những giá trị đẹp đẽ ấy đang dần phai mờ.
Trên phố đông người qua lại, Ông Đồ ngồi im lặng, nhưng trong tâm hồn ông, có một sự cô đơn, lạc lõng trước khung cảnh quen thuộc mà không còn ai chú ý đến. Năm nay, hình ảnh Ông Đồ đã mất đi, và cái đẹp mang tinh thần đã nhạt nhòa. Những người Ông Đồ từng viết chữ Nho điêu luyện, từng truyền đạt tri thức và ước nguyện của người khác, giờ đây trở nên vô nghĩa, như những hành trang bỏ lại trên cuộc hành trình của cuộc đời.
Chúng ta không nên quên đi giá trị của quá khứ, những di sản văn hóa mà Ông Đồ đã để lại. Hãy nhìn vào chính mình và tự hỏi, liệu chúng ta có vui mừng, có hạnh phúc khi bước đi trên con đường mà đã trải qua sự lụi tàn của tri thức và tinh hoa văn hóa? Chúng ta không nên để những nét đẹp kia trở nên lãng quên, mất đi giữa cuộc sống hiện đại và những thay đổi không ngừng. Bài thơ Ông Đồ gợi nhắc cho chúng ta rằng hãy trân trọng những giá trị đẹp đẽ của văn hóa, để không phải hối tiếc và nuối tiếc khi đã để mất đi những khoảnh khắc quý giá trong cuộc sống.
Nhận thấy không khí Tết đã tràn về qua những cành đào nở rực rỡ, ta cảm nhận được một mùa xuân mới đang tràn đầy hy vọng và niềm vui. Trái tim con người đầy phấn khởi, hân hoan chuẩn bị cho những ngày Tết Âm Lịch đặc biệt quan trọng của đất nước. Trong thời khắc này, Ông Đồ hiện diện để thể hiện tài năng của mình qua công việc ý nghĩa, tự do và kiếm sống bằng cách viết chữ theo yêu cầu của những người yêu thích con chữ. Đồ nghề đơn giản của ông chỉ là “Mực tàu, giấy đỏ, cùng kiến thức”.
Hình ảnh Ông Đồ trong tâm trí tác giả vẫn mang đến sự thân thương, gợi lại sự an lành và niềm vui, đối lập hoàn toàn với sự ồn ào náo nhiệt trên phố. Ông đơn giản, điềm đạm, nhưng vẫn thu hút sự chú ý của đông đảo người qua lại, trở thành trung tâm tâm điểm của bức tranh này. Bức tranh tạo dựng trong tâm trí tác giả đầy tiếng động, hình ảnh, và cảm nhận về thời khắc đẹp nhất của mùa xuân tuyệt vời. Bài thơ tiếp tục bằng một đoạn 4 câu thơ ý nghĩa.
Có nhiều người thuê viết
Khen tài mãi không ngừng
Hoa tay thảo nét chữ
Như phượng bay rồng múa.
Sự giản dị của Ông Đồ mang trong mình những phẩm chất quý giá, thu hút nhiều người tìm đến ông để xin chữ, xin một chút cái đẹp. Ông rất ấm lòng khi nghe những lời khen tài, sự trân trọng được thể hiện trong từng nét chữ, những người thuê viết tưởng nhớ Ông Đồ với ý nghĩa to lớn. Họ học chữ Nho để có tri thức, học để trở thành những người quan trọng, và cao cao tại thượng đề cao nhân nghĩa, đạo đức, tình yêu và lòng trung thành thông qua việc học chữ. Câu thơ tiếp theo miêu tả rõ nhất sự tài năng của Ông Đồ. Những người có nhiều hoa tay không chỉ viết chữ, mà họ còn tạo nên một tác phẩm như một bức tranh mang đầy ý nghĩa nghệ thuật. Hình ảnh ông ngồi đó, tâm trí tĩnh lặng, bàn tay nhẹ nhàng vẽ những nét bút điệu luyện, mỗi chi tiết “nét thanh, nét đậm, nét xổ” được trình bày một cách tỉ mỉ, mượt mà như những con rồng múa, phượng bay.
Sự giản dị không làm mất đi sự phóng khoáng trong phong cách viết chữ Nho của Ông Đồ. Những nét bút thanh thoát như rồng bay, phượng múa càng tăng thêm sự sáng tạo và mê hoặc. Không chỉ là một bức tranh trang trí cho ngày Tết, ông đồ tạo ra những tác phẩm để lưu giữ mãi trong lòng người. Dân gian có câu “Nét chữ nết người”, từ đó ta nhìn thấy cái tài và cái tâm qua những nét bút tinh tế, chứa đựng tâm hồn tinh hoa, khát vọng và lý tưởng sống đẹp của những Ông Đồ. Những chữ ông viết mang đa dạng hình dáng, không lẫn lộn, không trùng lặp, điều này thể hiện sự sáng tạo không ngừng nghỉ của những con người trí thức.
Đoạn thơ tiếp theo không chỉ mang lại niềm vui, mà còn đem đến một chút cảm nhận trầm lắng, nối liền quá khứ với hiện tại. Ông Đồ trở thành biểu tượng của một thời kỳ đẹp đẽ, khi mà những giá trị văn hóa, truyền thống đang dần trở nên phai nhạt và bị lãng quên. Nỗi tiếc nuối trong tâm hồn tác giả hiện lên, như một lời nhắc nhở cho chúng ta không nên quên đi quá khứ, hãy trân trọng và gìn giữ những giá trị đẹp đẽ của văn hóa, tinh thần để không phải hối tiếc, ân hận.
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu.
Nhưng tại sao, đến với bài thơ “Ông Đồ” của Vũ Đình Liên, tôi lại bị cuốn vào những giọng hát xa xôi của quan họ. Còn duyên đó, hết duyên ở đây lại là một câu chuyện khác, chuyện về sự còn và mất của một thế hệ đã qua đi mà không được thưởng thức sự thành công, thông qua hình ảnh tâm điểm: Ông Đồ, di tích bi thương của một thời đại hao mòn.
Bài thơ ngũ ngôn này gồm 5 khổ, tường minh một cách toàn diện một thể loại nghệ thuật: Ông Đồ, trên trục thời gian tuyến tính, từ quá khứ đến hiện tại, từ sự còn đến sự mất, từ những thời khắc hoàng kim cho đến khi chỉ còn lại dấu ấn.
5. Mẫu số 5
Nếu coi bài thơ như một bức chân dung về Ông Đồ, thì góc nhìn đầu tiên là Ông Đồ – người nghệ sĩ tài hoa thời còn duyên.
Sự xuất hiện của Ông Đồ liên kết với vòng quay đều đặn của thời gian, không thể nào khác:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy Ông Đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay.
Thời gian được đếm bằng sự nở hoa đào, là dấu hiệu rằng xuân đã đến, màu sắc được cất lên từ sắc đào tươi thắm, cuộc sống được hiện lên qua sự đông đúc của phố phường, tình cảm của con người được thể hiện qua hình ảnh: Bao nhiêu người thuê viết, tấm tắc ngợi khen tài.
Trên nền trang trí rực rỡ ấy, chân dung của Ông Đồ tạo nên điểm nổi bật, người nghệ sĩ trong lòng ngưỡng mộ, kính trọng của mọi người:
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay.
Hoa đào đã nhường chỗ cho hoa tay, đôi tay tài hoa của Ông Đồ, mỗi nét chữ như cánh hoa nở rộ, lan tỏa vẻ đẹp đến mọi nơi. Nét chữ từ bàn tay Ông Đồ mang như phép màu, so sánh như phượng vũ bay lượn, rồng rắn múa lượn. Đây là hình ảnh so sánh tuyệt vời, giàu giá trị tạo hình, nét thăng hoa trong ngôn từ của Vũ Đình Liên để miêu tả những nét chữ mềm mại mà linh thiêng, phóng khoáng mà cao quý, mang trong nó một tinh thần như phượng vũ, rồng múa. Những nét chữ ấy dường như bay lên giữa ánh sáng rực rỡ của mùa xuân, giữa sắc đào tươi thắm. Đây là một tác phẩm đẹp, một lời khen ca cho Ông Đồ, một tài năng nghệ thuật.
Xem thêm : Viết đoạn văn tiếng Anh về lợi ích của máy tính (3 Mẫu)
Nhưng trong những câu thơ tiếp theo, một sự trầm lắng khó tả dần hiện lên, nối tiếp nhịp sống của quá khứ với hiện tại. Cái kết của câu chuyện này vẫn chưa được tiết lộ, còn ẩn giấu trong sự chờ đợi và nhớ mong:
Còn duyên kẻ đón người đưa Hết duyên đi sớm, về trưa mặc lòng.
Những dòng chữ này chứa đựng một tình cảm thương tâm, ngọt ngào và đắng cay. Duyên phận của con người, như một dòng chảy không thể ngăn cản, mang theo niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ. Có duyên, ta gặp nhau và đón nhau, nhưng khi duyên đã kết thúc, chúng ta phải xa nhau. Duyên đi mãi mãi, chỉ còn lại một kỷ niệm trong lòng. Đó là cuộc sống, với những lời chia ly và những hồi ức vụn vặt.
Trước bức tranh tưởng chừng như đơn giản của Ông Đồ, ta cảm nhận được sự bi thương, mất mát của một thời gian tàn, một sự cô đơn trong vẻ đẹp đơn sơ. Bức tranh nghệ thuật này là một món quà tinh thần cho chúng ta, nhắc nhở về giá trị của sự giản dị, tài năng và tình yêu đối với nghệ thuật. Ông Đồ đã để chúng ta thấy được rằng trong những điều đơn giản nhất của cuộc sống, có thể chứa đựng những cảm xúc và ý nghĩa sâu sắc. Ông Đồ đã để lại cho chúng ta một di sản vô giá, là tình yêu và đam mê dành cho con chữ, là khát vọng truyền cảm hứng và tạo nên những tác phẩm nghệ thuật đẹp đẽ.
Với ông đồ, việc viết chữ không chỉ là công việc, mà là một cách để thể hiện tài năng, sự tận tụy và lòng đam mê. Những nét bút mềm mại từ bàn tay ông như những ngón tay nhẹ nhàng vẽ lên trang giấy, tạo nên những nét chữ tinh tế và điêu luyện. Mỗi câu chữ ông viết đều là một tác phẩm nghệ thuật mang trong nó sự phong phú và sắc sảo. Chính vì vậy, ông đã thu hút được lòng người và nhận được sự tôn trọng và ngưỡng mộ từ mọi người xung quanh.
Nhưng đằng sau những thành công và sự ngưỡng mộ ấy, trong tâm hồn ông Đồ vẫn chứa đựng một sự trầm lắng, một nỗi buồn về những gì đã qua đi. Duyên phận, như một dòng chảy vô tận, đưa người đến và đưa người đi. Khi duyên đã hết, ta chỉ có thể mang trong lòng những kỷ niệm và nuối tiếc.
Đoạn thơ cuối cùng, với những từ ngữ đầy cảm xúc, thể hiện một trạng thái tâm lý phức tạp của ông Đồ:
Còn duyên kẻ đón người đưa Hết duyên đi sớm, về trưa mặc lòng.
Những câu thơ này gợi lên trong ta những cảm nhận sâu sắc về sự khắc khoải, đắng cay và mất mát. Chúng ta cảm nhận được sự lưu luyến, hy vọng và trăn trở trong tâm hồn ông Đồ. Cuộc sống là một dòng chảy vĩnh viễn, và trong những thăng trầm của nó, chúng ta học cách trân trọng những khoảnh khắc đáng quý và sống trọn vẹn từng giây phút.
Ta nhớ tới cây bút thần của Lê Mã Lương trong một câu chuyện cổ Trung Quốc, nét bút đưa đến đâu, vạn vật như có thần sống dậy, sinh sôi đến đó, vẽ chim, chim cất cánh bay, vẽ công, công xòe ra múa lượn… Bao nhiêu tài năng, tâm huyết của ông đồ được gửi gắm trong nét chữ tài hoa đó. Đây là thời kỳ đắc ý nhất của ông: cái đẹp lên ngôi, tài năng được trân trọng.
Nhưng thời kỳ hoàng kim đó của ông chỉ thoáng qua như một ảo ảnh, theo dòng hồi tưởng của nhà thơ, một hiện thực đau lòng đã xảy ra:
Nhưng mỗi năm, mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm!
Mực đọng trong nghiên sầu…
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay,
Lá vàng rơi trên giấy!
Ngoài giời mưa bụi bay.
Góc nhìn thứ hai, ông đồ – người sinh bất phùng thời, lúc hết duyên.
Hai khổ ba, bốn với giọng kể và lời thơ miêu tả hiện lên ảnh hình ông đồ vẫn ngồi đấy nhưng cảnh vật quanh ông đã khác xưa:
Ngày xuân trước, là phố đông với bao nhiêu người thuê viết thì nay đã vắng, đông giờ đã vắng. Ngày trước, họ tấm tắc ngợi khen tài thì bây giờ vẫn những con người đó nhưng qua đường không ai hay; thân quen thành xa lạ. Ngày trước, họ trầm trồ thán phục nay họ dửng dựng lạnh nhạt, tình thế đã đảo ngược, tình đời đã đổi thay. Ông đồ bỗng trở nên đơn côi, lạc lõng đến tội nghiệp giữa cái xô bồ, ồn ào của nền văn minh lạnh lùng kiểu đô thị dù ông vẫn muôn có mặt với đời. Ông đồ vẫn ngồi đấy, ông vẫn kiên gan bám lấy cuộc đời, ông càng lẻ loi, lạc bước: nên đã trở thành người sinh bất phùng thời.
Xót xa thay, nét chữ như phượng múa, rồng bay ngày trước, giờ ngậm ngùi vì bị chôn vùi trong lãng quên nên:
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu.
Giấy đỏ, nghiên mực, hành trang gắn liền với kẻ sĩ trên hành trình sáng tạo ra cái đẹp nhưng giờ đây cũng lặng lẽ, ủ ê trong nỗi buồn ế khách của ông đồ.
Giấy bẽ bàng, buồn tủi, đỏ mà cứ phai dần, nhạt nhẽo không thắm lên được, mực không được bút lòng chấm vào, mực cũng đọng lại như giọt lệ khóc.
Với thủ pháp nhân hóa giàu sức gợi, Vũ Đình Liên đã diễn tả thật tinh tế nỗi buồn không nói không cất lên được, từ lòng người đã thấm cả vào những vật vô tri khiến mực tàu, giấy đỏ cùng trĩu nặng nỗi buồn.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Người buồn, cảnh cũng buồn theo. Nỗi buồn của ông đồ không chỉ chiếu lên nghiên mực, giấy đỏ mà còn lan tỏa, mênh mang khắp không gian, khiến bức tranh xuân năm ấy mang gam màu xám lạnh, u buồn:
Lá vàng rơi trên giấy!
Ngoài trời mưa bụi bay.
Lá vàng rơi không nghe tiếng, mưa bụi bay không ướt áo ai, mà nghe như có từng thu chết, từng thu chết cuốn ra đi theo hình bóng một lớp người.
Quá khứ vàng son của ông đồ nay đâu còn nữa. Ông và những người như ông dường như đang lỡ nhịp, lậc bước giữa mênh mông, gió cuốn, sóng xô của cơn bão táp đô thị hóa.
Ông chỉ là cái bóng vô hồn, tiều tụy đáng thương của một thời tàn.
Góc nhìn thứ ba: ông đồ – người thiên cổ.
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Năm nay đào lại nở mùa xuân tuần hoàn trở lại hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ nhưng không thấy ồng đồ xưa. Cảnh vẫn như cũ nhưng người dã không còn.
Ông đồ già đã thành ông đồ xưa ông đã nhập vào những người muôn năm cũ ông đã thuộc về những gì quá khứ xa xôi, chỉ còn vương vấn hồn ở đâu bây giờ.
Với kiểu kết cấu đầu cuối tương ứng mỗi năm hoa đào nở năm nay đào lại nở…9 bài thơ như sự nối kết hai mảng thời gian quá khứ và hiện tại. Hình ảnh ông đồ cứ mờ dần, mờ dần rồi mất hút trên con đường vô tận của thời gian. Cái bóng của ông không còn, địa chỉ của ông cũng không còn nữa bởi vì nhan nhản trên phố phường ngày ấy là lớp người hãnh tiến kiểu đô thị chẳng kỷ, không thông cũng cậu bồi.
Chính vì thế hai câu kết khép lại bài thơ giống như tiếng gọi hồn cất lên thăm thẳm, day dứt:
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Ông đồ không còn nhưng hồn có nghĩa là linh hồn ông vẫn còn phảng phất đâu đây. Hồn, cách gọi đến chính xác lạ lùng những gì đã qua không thể mất, hồn là bất tử vì thác là thể phách, còn là tinh anh. Hồn có lẽ cũng cổ thể hiểu là vẻ đẹp tâm hồn Việt, văn hoá Việt chỉ có thăng trầm chứ không bao giờ mất.
Bài thơ đã chạm đến những rung cảm sâu xa nhất thuộc về tâm linh của giống nòi nên còn tha thiết mãi.
Nguồn: https://thcshongthaiad.edu.vn
Danh mục: Tra Cứu