Tóm tắt tiểu sử Cao Bá Quát
Đề bài: Tóm tắt tiểu sử Cao Bá Quát
- Đọc Vệt phấn trên mặt bàn Tiếng việt 4 Cánh Diều tập 1 trang 12
- Tiếng Việt 4 Chân trời sáng tạo Tập 1: Bài 6. Người thiếu niên anh hùng trang 30
- Hãy viết một đoạn văn ngắn kể về những đức tính tốt của em, trong đó có sử dụng dấu gạch ngang để đánh dấu các ý được liệt kê
- Tiếng Việt 4 Chân trời sáng tạo Tập 1: Bài 2. Đóa hoa hồng ngoại trang 15
- Đặt câu có hình ảnh nhân hóa về cây cối
Trả lời:
Bạn đang xem: Tóm tắt tiểu sử Cao Bá Quát
1. Tiểu sử Cao Bá Quát
Cao Bá Quát (chữ Hán: 高伯适; 1809 – 1855), biểu tự Chu Thần (周臣), hiệu Mẫn Hiên (敏軒), lại có hiệu Cúc Đường (菊堂), là quân sư trong cuộc nổi dậy Mỹ Lương, và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam.
Ông là người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh; nay thuộc xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Có ý kiến khác nhau về tên tự của Cao Bá Quát. Theo GS. Dương Quảng Hàm thì Cao Bá Quát có hiệu là Chu Thần (周臣). Theo các tác giả gần đây như GS. Nguyễn Lộc, GS. Vũ Khiêu, GS. Thanh Lãng, GS. Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế… thì tự của ông là Chu Thần, còn Mẫn Hiên (閔軒) chỉ là hiệu hoặc là biệt hiệu. Theo gia phả của dòng họ Cao ở Phú Thị: “Thân sinh ra Cao Bá Quát tên là Cao Huy Tham, có tên tự là Bộ Hiên. Ông nội Cao Bá Quát có tên tự là Ngọ Hiên. Cao Bá Quát có tên tự là Mẫn Hiên, lúc sinh thời, ông thường dùng các bút hiệu như: Chu Thần, Cao Chu Thần, Cúc Đường hoặc Cao Tử”.
Ông nội Cao Bá Quát tên là Cao Huy Thiềm (1761-1821) sau đổi là Cao Danh Thự, một danh y nổi tiếng trong vùng. Thân sinh Cao Bá Quát tên là Cao Huy Sâm (1784-1850) sau đổi là Cao Huy Tham, cũng là một thầy thuốc giỏi. Cao Bá Quát là em song sinh với Cao Bá Đạt, và là chú của Cao Bá Nhạ.
2. Sự nghiệp văn học của ông
– Cao Bá Quát là một nhà thơ có tài năng và bản lĩnh, được người đương thời tôn là Thánh Quát (“Thần Siêu, Thánh Quát”).
– Thơ văn ông bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và chứa đựng tư tưởng khai sáng có tính chất tự phát, phản ảnh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam trong giai đoạn giữa thế kỉ XIX.
– Ngay sau khi cuộc nổi dậy ở Mỹ Lương (tỉnh Sơn Tây) bị thất bại (1855-1856), các tác phẩm của Cao Bá Quát đã bị triều đình nhà Nguyễn cho thu đốt, cấm tàng trữ và lưu hành, nên đã bị thất lạc không ít.
– Một số tác phẩm còn sót lại cũng còn được trên ngàn bài được viết bằng chữ Nôm và chữ Hán.
– Cụ thể là hiện còn 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi, gồm 11 bài viết theo thể ký hoặc luận văn và 10 truyện ngắn viết theo thể truyền kỳ.
– Về chữ Nôm, có một số bài hát nói, thơ Đường luật và bài phú Tài tử đa cùng (Bậc tài tử lắm cảnh khốn cùng). Về chữ Hán, khối lượng thơ nhiều hơn, được tập hợp trong các tập:Cao Bá Quát thi tập, Cao Chu Thần di thảo, Cao Chu Thần thi tập, Mẫn Hiên thi tập.
3. Tác phẩm tiêu biểu
Ngay sau khi cuộc nổi dậy ở Mỹ Lương (tỉnh Sơn Tây) bị thất bại (1855-1856), các tác phẩm của Cao Bá Quát đã bị triều đình nhà Nguyễn cho thu đốt, cấm tàng trữ và lưu hành, nên đã bị thất lạc không ít. Tuy vậy, trước 1984, nhóm biên soạn sách Thơ văn Cao Bá Quát, đã tìm đến kho sách cổ của Thư viện Khoa học kỹ thuật trung ương (Hà Nội), và sau khi loại trừ những bài chắc chắn không phải của ông, thì số tác phẩm còn sót lại cũng còn được trên ngàn bài được viết bằng thứ chữ Nôm và chữ Hán.
Cụ thể là hiện còn 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi, gồm 11 bài viết theo thể ký hoặc luận văn và 10 truyện ngắn viết theo thể truyền kỳ. Trong số này về chữ Nôm, có một số bài hát nói, thơ Đường luật và bài phú Tài tử đa cùng (Bậc tài tử lắm cảnh khốn cùng). Về chữ Hán, khối lượng thơ nhiều hơn, được tập hợp trong các tập:
Cao Bá Quát thi tập
Cao Chu Thần di thảo
Cao Chu Thần thi tập
Mẫn Hiên thi tập
Ngoài ra, cùng THCS Hồng Thái Cảm nhận về đường đời của nho sĩ Việt Nam cuối thế kỉ XIX nói chung và Nguyễn Công Trứ nói riêng qua tác phẩm Sa Hành đoản ca của ông nhé
Sa hành đoản ca – Một cách cảm nhận về đường đời của nho sĩ Việt Nam thế kỉ XIX
1. Có lẽ được sáng tác vào thời gian đi thi Hội, trong khoảng những năm 1832 đến 1841, Sa hành đoản ca (Bài hát ngắn đi trên bãi cát) vừa mang dấu ấn quang cảnh thực mà Cao Bá Quát (1809? – 1855) được chứng kiến trên đường bộ hành vào Nam lại vừa hiện diện như một biểu tượng nghệ thuật về con đường đời qua sự cảm nhận của một trí thức vốn lận đận với cử nghiệp. Sa hành đoản ca theo lối thơ cổ thể, không bị gò bó vào luật như thơ cận thể Đường luật, gồm 16 câu thơ tạp ngôn – xen kẽ các câu 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ, với bốn vần bằng trắc thay đổi, thật phù hợp cho sự thể hiện những tâm trạng và suy tư không đơn giản của tác giả.
2. Về bố cục, Sa hành đoản ca theo cách thông thường của thơ cổ thể, chia ba phần, hai phần đầu và kết hô ứng với nhau chặt chẽ từ hình tượng cho đến ý tưởng, tâm trạng, cảm xúc. Bốn câu đầu miêu tả hình ảnh người khách đi trên bãi cát dài, sáu câu tiếp theo mở rộng cảm thán về đường đời, sáu câu cuối quay lại với hình ảnh bãi cát dài cùng hành trình ngày càng đơn độc của người khách.
3. Từ nhan đề, bố cục cho đến toàn bộ hệ thống từ ngữ, vần thơ, nhạc điệu bằng trắc, độ dài ngắn của câu thơ… Sa hành đoản ca thực sự là một chỉnh thể nghệ thuật với hình tượng trung tâm là bãi cát dài mênh mông và một con người nhỏ bé như bị hút đi trên đó. Trước hết, phải nói tới ý nghĩa tả thực rất sinh động của bài thơ mà chúng ta có thể hình dung nhờ liên hệ với hoàn cảnh sáng tác và cuộc đời tác giả:
Trường sa phục trường sa
Nhất bộ nhất hồi khước
Nhật nhập hành vị dĩ
Khách tử lệ giao lạc
dịch:
(Bãi cát dài, lại bãi cát dài
Đi một bước như lùi một bước
Mặt trời đã lặn mà vẫn còn đi
Khách (trên đường) nước mắt tuụn rơi)
Nghệ thuật điệp từ kết hợp với lối đối ngẫu – một đặc điểm thi pháp nổi bật của Sa hành đoản ca, được phát huy hiệu quả ngay từ những dòng thơ đầu tiên. “Trường sa/ trường sa” “nhất bộ/ nhất hồi”, mặt trời lặn/ nước mắt rơi, tác giả không miêu tả tỉ mỉ mà chỉ gợi nên bằng một vài hình ảnh trùng điệp và đối ngẫu, cũng đủ khiến người đọc hình dung cảnh tượng những cồn cát dài dằng dặc chang chang nắng trải dọc bờ biển miền Trung đất nước, đi trên cát khô bỏng, bước chân người vừa như bị trôi ngược về phía sau (do cát khô và bãi dốc) vừa như bị níu lại một chỗ (do cảm giác bỏng rát của đôi chân). Ý nghĩa tả thực này gắn liền với sự kiện có thật trong cuộc đời tác giả (nhiều năm lẽo đẽo từ Bắc vào Huế thi Hội) cho thấy mạch thơ văn phản ánh những điều “sở kiến, sở văn” xuất hiện từ thế kỷ XVIII vẫn đang tiếp nối trong thế kỷ XIX. Nhưng điều mà tác giả muốn nói chắc chắn không chỉ dừng ở ý nghĩa tả thực đơn thuần đó, đoạn thơ tiếp theo cho ta thấy rõ hơn ý nghĩa tượng trưng của hình ảnh bãi cát dài:
Quân bất học tiên gia mỹ thụy ông
Đăng sơn thiệp thuỷ oán hà cùng
Cổ lai danh lợi nhân
Bôn tẩu lộ đồ trung
Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu
Tỉnh giả thường thiểu túy giả đồng
dịch:
(Anh không học được ông tiên có phép ngủ giỏi
Xem thêm : Nội dung bài Tre Việt Nam
Trèo non lội nước mãi, oán bao giờ cho hết
Xưa nay phường danh lợi
Tất tả trong đường đời
Quán rượu ở đầu gió có rượu ngon
Người tỉnh thường ít, kẻ say giống nhau)
Từ hình ảnh ông tiên Hạ Hầu Ấn có phép ngủ giỏi, vừa nhắm mắt ngủ ngon, ngáy đều vừa leo núi lội nước đến hình ảnh con đường đời ngược xuôi “bôn tẩu” của phường danh lợi, cho đến hình tượng “tỉnh giả/ tuý giả” thường gặp trong thơ ca cổ Trung Hoa và Việt Nam, ba nhóm hình ảnh này có liên quan gì với hình tượng bãi cát dài và người khách bộ hành đơn độc? Đáng chú ý nữa là một câu thơ về “khách tử” được xen giữa ba nhóm hình ảnh đó: “Đăng sơn thiệp thuỷ oán hà cùng” (Trèo non lội nước mãi, oán bao giờ cho hết). Sử dụng lại mô típ quen thuộc “đăng sơn” song Cao Bá Quát đã đưa đến cho nó một ý nghĩa hoàn toàn khác trước. Cổ nhân “đăng sơn” để thưởng thức, chiêm nghiệm sự hoà nhập với cái bao la khôn cùng, cái khoáng đạt kỳ vĩ của vũ trụ. Cao Bá Quát lôi sự “đăng sơn” (lên núi) xuống cho song hành với việc “thiệp thuỷ” (lội nước) để trần tục hoá hình tượng, cụ thể hoá cảm xúc, phô bày tâm trạng ai oán kéo dài, khó dứt của mình (oán hà cùng). Hình tượng “tỉnh giả/ tuý giả” vốn nổi tiếng với Khuất Nguyên và thiên Ly tao: “Chúng nhân giai trọc ngã độc thanh/ Chúng nhân giai túy ngã độc tỉnh” (Mọi người đều đục, mình ta trong/ Mọi người đều say, mình ta tỉnh), nổi danh với bài ca Tương tiến tửu của vị Thi Tiên Lý Thái Bạch: “Chung cổ soạn ngọc bất túc quý/ Đãn nguyện trường túy bất nguyện tỉnh” (Cỗ ngọc với trống to, chén lớn không đủ quý/ Chỉ mong say mãi không mong tỉnh), một người tự hào vì cả thiên hạ chỉ một mình là “tỉnh giả”, một người lại đề cao phẩm chất “tuý giả” của mình, cả hai đều từng là những nhân cách nho sĩ đáng trọng. Hiểu đúng chữ “tỉnh” mà các tác giả sử dụng, chúng ta sẽ hiểu hơn ý nghĩa của hình tượng thơ. “Tỉnh” (Á) là tỉnh cơn say, tỉnh cơn ngủ mê, tỉnh ngộ (Á 悟ồ) – mọi sự đang mê mà tỉnh ra. Từ chỗ oán hận con đường nhọc nhằn trên bãi cát dài mà không có phép màu ngủ giỏi (vẫn phải vừa đi vừa giương mắt nhìn đời!), Cao Bá Quát dường như đã “tỉnh ngộ” (Á 悟ồ) ra nguyên nhân sâu xa của nỗi oán hận trèo non lội nước đó là “bôn tẩu lộ đồ trung” và chua chát nhận thấy chính mình cũng không nằm ngoài những “cổ lai danh lợi nhân” đó. “Mỹ tửu” là lạc thú có thể giúp người ta lãng quên các sự bất như ý song “mỹ tửu” cũng lại là nguy cơ khiến mọi kẻ mê muội (túy giả) cùng lâm cảnh ngộ như nhau. Khác với Khuất Nguyên và Lý Bạch, tác giả Sa hành đoản ca dùng hình ảnh “tỉnh giả/ tuý giả” để thể hiện tâm trạng thất vọng trước thực tế phần lớn “chúng nhân” nếu không bị “danh lợi” thì cũng bị “mỹ tửu” làm cho mê muội. Mê vì “danh lợi” và mê vì “mỹ tửu” – đó là những cám dỗ danh vọng, vật chất, lạc thú khiến đời người như đi trên bãi cát dài mãi không tới đích. Hình tượng bãi cát dài tiếp tục quay trở lại, ám ảnh hơn trước:
Trường sa trường sa nại cừ hà!
Thản lộ mang mang uý lộ đa
Thính ngã nhất xướng cùng đồ ca
Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp
Nam sơn chi nam ba vạn cấp
Quân hồ vi hồ sa thượng lập?
dịch:
(Bãi cát dài, bãi cát dài, biết tính với nó sao đây?
Đường bằng phẳng thì mờ mịt, đường ghê sợ thì nhiều
Hãy nghe ta hát khúc ca “đường cùng”
Phía bắc núi Bắc núi muôn lớp
Phía nam núi Nam sóng muôn đợt
Sao anh còn đứng làm chi trên bãi cát?)
Đoạn thơ cuối tập trung dày đặc hơn cả những trùng điệp và đối ngẫu: trường sa/ trường sa/ sa thượng lập, thản lộ/ uý lộ, bắc sơn chi bắc/ nam sơn chi nam, vạn điệp/ vạn cấp, quân hồ/ vi hồ, kể cả những trùng điệp – đối ngẫu với hai đoạn trên: cùng đồ ca/ oán hà cùng/ nại cừ hà…Thủ pháp trùng điệp và đối ngẫu kết hợp với những câu hỏi và câu cảm thán liên tiếp bật lên từ đầu tới cuối bài thơ (Quân bất học tiên gia mỹ thụy ông/ Đăng sơn thiệp thuỷ oán hà cùng/ Trường sa trường sa nại cừ hà/ Thính ngã nhất xướng cùng đồ ca/ Quân hồ vi hồ sa thượng lập) thể hiện thật rõ rệt sự bủa vây của không gian cũng như nỗi bối rối triền miên trong tâm trạng tác giả. Trong khúc ca “đường cùng” (cùng đồ ca 窮‡ “r 歌è) hiện lên cả một cảnh tượng hãi hùng, đầy đe dọa, với con đường phía trước mờ mịt, đáng sợ (thản lộ mang mang, uý lộ đa), với muôn trùng núi phía núi Bắc muôn trùng sóng phía núi Nam (Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp/ Nam sơn chi nam ba vạn cấp) dựng lên ngăn cản bước bộ hành. Hình ảnh thơ vẫn vừa là tả thực những quãng đường miền Trung đất nước chênh vênh hiểm trở nằm chẹt giữa núi cao phía bắc và biển lớn phía nam mà Cao Chu Thần từng đi qua, vừa là mượn điển tích (Hậu Hán thư), ngụ ý tượng trưng, gửi gắm tâm trạng. Bài thơ kết thúc bằng một câu hỏi kiêm tán thán rất đặc biệt (Quân hồ vi hồ sa thượng lập?), hai hư từ xuất hiện liên tiếp (hồ – Œể – sao vậy?, hồ – 乎Á – lời tán thán: vậy, ôi, ư, rư!) làm nổi bật hình ảnh một người đứng giữa bãi cát dài vô định không có hướng đi, đường đi bốn phía đầy chướng ngại vật (núi, sóng muôn trùng), văng vẳng bên tai một câu chất vấn đầy nghi hoặc về mục đích và hành động của chính mình (Sao anh còn đứng làm chi trên bãi cát?).
Về nghệ thuật diễn tả tâm trạng, cảm xúc cũng như nghệ thuật kết hợp ý nghĩa tả thực và ý nghĩa tượng trưng, bài thơ có thể được coi như một mẫu mực của lối thơ cổ thể chữ Hán thời trung đại. Sự hô ứng giữa các hình ảnh, từ ngữ, vần điệu, bằng trắc, độ dài ngắn của câu thơ… đạt tới mức hoàn hảo với hiệu quả nghệ thuật cao. Hình ảnh trung tâm xuyên suốt từ nhan đề cho đến câu cuối cùng bài thơ là hình ảnh bãi cát dài cùng người khách bộ hành đơn độc. Bổ sung và tô đậm ý nghĩa tượng trưng cho hình ảnh trung tâm là các hình ảnh con đường (lộ đồ – ˜H “r) và hệ thống từ ngữ liên quan tới “đường” (lộ đồ trung, thản lộ, uý lộ, cùng đồ ca, nhất bộ nhất hồi, đăng sơn thiệp thuỷ, bôn tẩu…). Bài thơ mở với cước vận bằng (sa), tiếp với các cước vận trắc (khước, lạc), cước vận bằng (ông, cùng, trung, đồng, hà, ca) để kết với một loạt cước vận trắc thật trúc trắc nặng nhọc (điệp, cấp, lập). Sự thay đổi vần thơ theo hướng này khiến tâm trạng trăn trở, bức bối của tác giả ngày càng được tô đậm hơn. Độ dài ngắn của câu thơ cũng là một thủ pháp nghệ thuật hữu hiệu, mở đầu bằng bốn câu thơ ngũ ngôn (câu 1 – 4) sau đó xen giữa đoạn thứ hai hai câu ngũ ngôn nữa (câu 7 – 8) – đó là cách tác giả đang đếm từng bước chân “bôn tẩu”, các câu thơ còn lại chủ yếu kéo dài thành thất ngôn (có một câu 8 chữ) với từ ngữ trùng điệp và đối ngẫu dày đặc thể hiện thật rõ nét con đường dằng dặc, không gian bủa vây muôn trùng, cảm xúc oán hận ngày càng tăng cũng như tâm trạng triền miên bối rối hồ nghi của tác giả. Đại từ nhân xưng thay đổi nhiều lần (khách tử, quân, ngã, quân) tạo cho bài thơ một kết cấu mang đậm tính đối thoại, tranh luận, đồng thời cái nhìn khách thể hóa chủ thể có tác dụng mở rộng tối đa khả năng đồng cảm của đối tượng tiếp nhận đối với nhân vật trữ tình. Việc sử dụng điển cố và thi liệu cũng là yếu tố mang đến cho bài thơ những nét mới mẻ, thoát khuôn sáo ở chỗ tác giả đã thay đổi ý nghĩa của thi liệu (thay đổi ý nghĩa của thi liệu “đăng sơn”, của cặp hình tượng “tỉnh giả/ túy giả”, của điển cố rút từ Hậu Hán thư). Ngoài Sa hành đoản ca, hình ảnh con đường mịt mù đáng sợ với bao chướng ngại vật trải dài trước bước chân con người tuổi trẻ còn xuất hiện trong một số bài thơ khác sáng tác cùng thời gian vào Kinh thi Hội của Mẫn Hiên, như bài Lạc sơn lữ trung (Thiếu niên tật tẩu chung hà sự?/ Uý lộ man man trước lữ hoài – Tuổi trẻ chạy vạy cuối cùng có nên việc gì không/ Con đường ghê sợ còn dài cứ vướng vít lòng lữ khách), bài Hoành sơn vọng hải ca (Hải khí quyển sơn sơn như chỉ/ Sơn bắc sơn nam thiên vạn lý/ Công danh nhất lộ kỷ nhân nhàn?/ Quan cái phân phân ngã hành hỹ! – Hơi bể quyện vào núi, núi lởm chởm như ngón tay/ Phía bắc núi phía nam núi, suốt nghìn muôn dặm/ Trên đường công danh đã mấy ai nhàn/ Mũ lọng nhộn nhịp ta cũng đi đây)… Song Sa hành đoản ca mới thực sự là một hình tượng nghệ thuật hoàn chỉnh về tâm trạng hoang mang, chán nản của một trí thức nho học trước con đường cử nghiệp nói riêng cũng như thực trạng đường đời nói chung thời đó.
Được làm theo lối thơ cổ thể khá tự do không bị câu thúc bởi niêm luật, Sa hành đoản ca tuy vẫn sử dụng bút pháp trung đại (bút pháp tượng trưng, điển cố) nhưng không phải để nói chí mà chủ yếu là để tỏ bày tâm trạng, bộc lộ cảm xúc thực trước đường đời. Đó là nét mới của thơ ca nhà nho thế kỷ XIX, cho thấy sự vận động theo hướng gắn liền với cuộc sống hiện thực ngày càng đậm nét hơn trong văn chương trung đại. Bằng sự trải nghiệm bản thân, thông qua hình tượng thơ, Cao Bá Quát dường như đã bộc lộ những dự cảm về cung cách khoa cử phong kiến lỗi thời thiếu thực dụng, gián tiếp thể hiện cái nhìn tiên đoán khá chính xác về chung cục bế tắc của con đường cử nghiệp triều Nguyễn khi vận hội mới ùa đến. Và phải chăng ngay trong nỗi oán hận chán nản hồ nghi con đường đời mãi không tới đích đã ngầm ẩn chứa cả nỗi khát khao thay đổi, khát khao vươn tới một lý tưởng sống tốt đẹp hơn?
Nguồn: https://thcshongthaiad.edu.vn
Danh mục: Lớp 4