Tra Cứu

Warning

Hiện nay, trong công cuộc xây dựng đất nước, bên cạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế, chúng ta đồng thời phải xây dựng và phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bản thân sự khẳng định nội dung “đậm đà bản sắc dân tộc” của nền văn hóa mới đã chứng tỏ một phần tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới và xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Do đó, việc quán triệt quan điểm kế thừa của triết học Mác sẽ góp phần tạo cơ sở lý luận vững chắc để chúng ta có thể thực hiện thành công nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa mới.

Kế thừa là quy luật phát triển tất yếu của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Kế thừa còn được xem là một trong những đặc trưng cơ bản, phổ biến của phủ định biện chứng, là sợi dây liên kết bền vững giữa cái cũ và cái mới, giữa sự vật cũ và sự vật mới trên con đường phát triển. Thực chất đây là quá trình đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa sự vật cũ với sự vật mới nhằm phát huy những yếu tố, bộ phận tích cực, tiến bộ của cái cũ, sự vật cũ để xây dựng, tạo nên cái mới, sự vật mới. Quá trình đó vừa diễn ra sự lọc bỏ và giữ lại những “hạt nhân hợp lý”, vừa bổ sung, phát triển và tạo ra các giá trị mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thế giới hiện thực.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, quá trình vận động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan là quá trình liên tục thực hiện những bước phủ định kế tiếp nhau. Sự phủ định ấy không chỉ đơn thuần là thủ tiêu, phá hủy cái cũ, mà còn là sự giữ lại và phát triển những nhân tố tích cực đã có, tức là kế thừa. Trong quá trình phát triển, giữa cái cũ và cái mới, sự vật cũ và sự vật mới bao giờ cũng có mối liên hệ ràng buộc, tương tác qua lại, xâm nhập vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau và làm tiền đề của nhau. Cái cũ, sự vật cũ khi mất đi không có nghĩa là mất đi hoàn toàn, mà trong nó vẫn được bảo tồn và giữ lại những yếu tố tích cực, những “hạt nhân hợp lý” để tạo tiền đề, nền tảng cho sự phát triển tiếp theo. Thực chất nó là mắt khâu trung gian liên hệ giữa cái cũ, sự vật cũ với cái mới, sự vật mới. Ngược lại, cái mới, sự vật mới phát triển cao hơn không phải từ hư vô, trên mảnh đất trống không, mà là kết quả phát triển hợp quy luật từ những gì hợp lý của cái cũ, sự vật cũ; là kết quả của sự đấu tranh và kế thừa tất cả những yếu tố còn tích cực của cái cũ, sự vật cũ. Diễn đạt tư tưởng đó, V.I.Lênin viết: “Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng, – dĩ nhiên, phép biện chứng bao hàm trong nó nhân tố phủ định, và thậm chí với tính cách là nhân tố quan trọng nhất của nó, – không, mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định”[1]

Đối với nước ta, sự phát triển văn hóa Việt Nam là một dòng chảy liên tục kế tiếp nhau qua các thời kỳ lịch sử. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những di sản quý báu của dân tộc và nhân loại. Đảng ta luôn xác định xây dựng nền văn hóa mới là một trong những nhiệm vụ trung tâm của cách mạng Việt Nam, trong đó truyền thống văn hóa của dân tộc được Đảng ta kế thừa và phát huy triệt để, góp phần trực tiếp nâng truyền thống văn hóa của dân tộc và các giá trị của nó lên một tầm cao mới, với một chất lượng mới. Đầu năm 1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã thông qua bản Đề cương văn hóa Việt Nam, Đề cương xác định lĩnh vực văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) của cách mạng Việt Nam và đề ra ba nguyên tắc của nền văn hóa mới: Dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa. Có thể coi Đề cương văn hóa Việt Nam là bản Tuyên ngôn, là Cương lĩnh của Đảng về văn hóa trước Cách mạng Tháng Tám mà ảnh hưởng của nó còn tác động sâu rộng đến mãi sau này. Năm 1948, Tổng Bí thư Trường Chinh đã trình bày Bản báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam”, tại Hội nghị văn hóa lần thứ hai, trên cơ sở vân dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác để phân tích tình hình văn hóa Việt Nam đưa ra chủ trương kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa hóa kháng chiến nhằm đẩy nhanh công cuộc kháng chiến kiến quốc; xây dựng nền văn hóa dân chủ mới Việt Nam có tính dân tộc, khoa học, đại chúng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII, một Hội nghị chuyên bàn về vấn đề xây dựng nền văn hóa mới, quan điểm đó đã được cụ thể hóa trong Nghị quyết “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc” – Nghị quyết này có vai trò đặc biệt quan trọng trong lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam thời kỳ đổi mới. Đến Nghị quyết của Đại hội X một lần nữa khẳng định phải “bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế”. Kế thừa quan điểm Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, Đảng đã xác định xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong tình hình mới. Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm về phát triển văn hóa, con người Việt Nam, trong đó nhấn mạnh “Phát triển con người Việt Nam toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”[2].

Trong bối cảnh hiện nay, dưới tác động mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa, sự tăng cường giao lưu về mọi mặt trong quan hệ giữa các quốc gia trên thế giới, sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa, của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã, đang và sẽ đặt ra cho chúng ta những khó khăn, thách thức lớn đối với việc kế thừa các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc. Chính vì vậy, nhiệm vụ bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc càng trở nên cấp thiết và nặng nề hơn bao giờ hết.

Một là, kế thừa là sự thống nhất của hai quá trình giữ lại và loại bỏ.

Cái mới ra đời và phát triển trên cơ sở tiếp nối những yếu tố tích cực và loại bỏ những yếu tố tiêu cực của cái cũ. Do vậy, trong nhiệm vụ bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, chúng ta cần phải chống hai khuynh hướng sai lầm: khuynh hướng bảo thủ và khuynh hướng phủ định sạch trơn đối với các giá trị văn hóa truyền thống.Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay, về thực chất là một quá trình phủ định biện chứng các mặt, các yếu tố, thuộc tính và các bộ phận cấu thành của nó. Sự kế thừa đó không phải là loại bỏ hoàn toàn hay phủ định sạch trơn truyền thống văn hóa, cắt đứt sợi dây liên hệ giữa quá khứ, truyền thống với hiện tại và tương lai; nó cũng không phải là bê nguyên xi hoàn toàn truyền thống văn hóa mà là sự kế thừa có chọn lọc, kế thừa có điều kiện, tức là chỉ giữ lại những “hạt nhân hợp lý”, những yếu tố còn tích cực, tiến bộ, đồng thời loại bỏ những yếu tố tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu trong truyền thống văn hóa.

Trước đây, ở nước ta đã tồn tại quan điểm phủ định sạch trơn trong cách mạng tư tưởng và văn hóa, nhiều giá trị văn hóa truyền thống, nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc đã bị coi là “đồi phong, bại tục” cần phải xóa bỏ. Hậu quả của quan niệm này là nhiều di tích lịch sử, văn hóa bị tàn phá nặng nề hoặc bị lảng quên, nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp không được gìn giữ, bảo tồn dần dần bị mai một… Khuynh hướng bảo thủ thực chất là khuynh hướng đề cao, tuyệt đối hóa truyền thống văn hóa dân tộc, coi truyền thống văn hóa dân tộc là cái bất biến, không thể thay đổi được và vì vậy kế thừa nguyên xi, không cần phải bổ sung, sửa đổi và phát triển. Từ đó dẫn đến “đóng cửa”, từ chối hoặc hạ thấp việc tiếp thụ các giá trị văn hóa bên ngoài.

Vì vậy, khi nhận thức và hành động, các chủ thể văn hóa cần có thái độ khách quan, khoa học trong giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc. Tích cực đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu, thông qua điều tra, khảo sát, đánh giá phân loại một cách có hệ thống, đồng bộ để lưu giữ những truyền thống văn hóa còn tiến bộ, còn phát huy tác dụng. Kiên quyết loại bỏ những gì của truyền thống văn hóa đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, không còn phát huy tác dụng. Xây dựng một thái độ đúng mực đối với những gì cần được bảo tồn, giữ gìn. Cái gì cần được bảo tồn, giữ gìn thì phải bảo tồn, giữ gìn ngay từ khi nó còn đang tồn tại. Hiện nay, trong hệ các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc có rất nhiều giá trị độc đáo, đặc sắc cần phải được giữ gìn, kế thừa và phát huy. Đó là những giá trị tiêu biểu mang tính ổn định, lâu dài và là điểm tựa để Việt Nam phát triển đi lên. Những giá trị đó là “lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”[3].

Hai là, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc phải trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các giá trị có ý nghĩa định hướng cho phát triển bền vững đất nước.

Kế thừa có chọn lọc các giá trị văn hóa dân tộc để bảo tồn, phát huy chính là quá trình giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại. Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cần phải có quan điểm lịch sử – cụ thể. Thực tế, sự thay đổi bối cảnh mới về không gian, thời gian và chủ thể đã có những giá trị không còn phù hợp, thậm chí cản trở sự phát triển. Đặc biệt là cần loại trừ những phi giá trị phát sinh, những phi giá trị có nguồn gốc liên quan đến tính cộng đồng làng xã, tính ưa hài hòa, ổn định, tính linh hoạt; thói dựa dẫm, cào bằng, đố kỵ, sỹ diện, vô cảm, thụ động, bảo thủ, chậm chạp, đối phó, thiếu tầm nhìn, chủ quan, sống bằng quan hệ, cẩu thả, coi thường pháp luật. Phải tập trung chọn lọc tinh hoa giá trị văn hóa dân tộc để bảo tồn, phát huy. Các giá trị văn hóa dân tộc như lòng yêu nước, ý thức dân tộc, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kêt, lòng nhân ái, bao dung, khả năng hòa nhập, thích nghi được bảo tồn và phát huy sẽ là động lực mới cho phát triển.

Ba là, kế thừa không phải giữ lại nguyên vẹn một cái gì đó mà lọc bỏ, chuyển hóa.

Trong việc lưu giữ, phát huy yếu tố tích cực của cái cũ trong quá trình xây dựng và phát triển cái mới thì bản thân yếu tố tích cực đó cũng phải được cải biến, chuyển hóa để cho phù hợp với điều kiện tồn tại của cái mới. Trải qua mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã xây dựng nên bản sắc văn hóa với những giá trị đặc sắc, độc đáo, mang sắc thái riêng của dân tộc Việt Nam. Trong quá trình phát triển, truyền thống văn hóa của dân tộc không hề đứng yên và bất biến, mà trái lại luôn được các thế hệ người Việt Nam kế tiếp kế thừa, bổ sung, phát triển và đổi mới liên tục. Đặc biệt, ở những thời kỳ chuyển biến mạnh mẽ của lịch sử, vào những thời điểm chuyển giao thời đại, nhiều giá trị, nhiều khía cạnh của truyền thống văn hóa dân tộc cũng có sự thay đổi mang tính bước ngoặt. Thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới đã và đang đặt ra những yêu cầu, nội dung và hình thức mới cho việc bổ sung, phát triển truyền thống văn hóa của dân tộc. Dựa trên nền tảng của những “hạt nhân hợp lý” trong truyền thống văn hóa dân tộc được giữ lại, cần tích cực bổ sung, phát triển thêm các giá trị mới, bảo đảm cho sự phát triển của hệ thống các giá trị văn hóa dân tộc luôn là một dòng chảy liên tục, không đứt đoạn. Các giá trị mới là những cái mới phù hợp, cái mới đang phát huy tốt tác dụng theo quan điểm của Đảng và nhân dân ta. Các giá trị mới ở đây không phải hoàn toàn tách rời giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tinh hoa của nhân loại, càng không phải do ý muốn chủ quan của một vài cá nhân áp đặt, mà nó được hình thành trong sự kế thừa biện chứng, trong sự tiếp nối hợp lôgíc các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc qua hàng nghìn năm lịch sử. Hệ giá trị văn hóa dân tộc truyền thống được kế thừa, phát huy phải có ý nghĩa đối với dân tộc và nhân loại hiện nay. Đó là hệ giá trị vì hòa bình, độc lập tự chủ, ấm no, dân chủ, bình đẳng, văn minh, nhân ái, khoan dung, có khả năng hòa hợp với cộng đồng. Các giá trị bản sắc văn hóa dân tộc được phát huy phải có vai trò định hướng cho sự phát triển hài hòa mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, tránh cực đoan vì lợi ích giữa cá nhân và xã hội, đem hạnh phúc đến cho con người. Chẳng hạn, truyền thống đoàn kết cố kết dân tộc để giữ nước trước đây có thể được kế thừa và nâng cao trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, thành tư tưởng đại đoàn kết toàn dân, đại đoàn kết dân tộc, toàn dân tham gia phát triển kinh tế, toàn dân tham gia xây dựng nền quốc phòng, toàn dân sẵn sàng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, toàn dân tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, toàn dân tham gia phòng, chống dịch covid-19. Nhưng trong điều kiện nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường hiện nay, tính cục bộ, địa phương rất dễ gây trở ngại trong việc mở rộng các mối quan hệ trong hoạt động kinh tế cũng như ở các lĩnh vực hoạt động khác, ngăn cản tiến bộ xã hội.

Tóm lại, việc kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa mới ở nước ta là một nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt, bởi vì một dân tộc nào đó sẽ không thể nào tiến lên được nếu như dân tộc đó quên đi quá khứ của nó, cái quá khứ đã quy định tiến trình lịch sử của dân tộc đó. Chính vì vậy, cần thường xuyên, tích cực bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc để vừa chủ động hội nhập quốc tế, lại vừa làm cho nền văn hóa Việt Nam ngày càng thể hiện tính dân tộc và tính hiện đại. Với tính cách là nhân tố nội sinh của quá trình phát triển, nền văn hóa đó sẽ là cơ sở góp phần xác định vị thế vững chắc của dân tộc ta trên con đường hội nhập và phát triển./.

Tài liệu tham khảo

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCH Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín BCH Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t1.

4. V.I. Lênin (1981): Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, t29.

5. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Trung cấp lý luận chính trị, học phần Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

THCS Hồng Thái

“Đừng xấu hổ khi không biết, chỉ xấu hổ khi không học.” Khuyết Danh
Back to top button