Tra Cứu

Trách nhiệm dân sự là gì? Trách nhiệm dân sự theo Bộ luật dân sự?

Trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áo dụng đối với người vi phạm pháp luật dân sự nhằm bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm dân sự dựa vào căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ mà các bên đã vi phạm, trách nhiệm dân sự được phân chia thành trách nhiệm ngoài hợp đồng và trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ từ những cam kết, thỏa thuận.

Nếu nghĩa vụ được tạo lập do các bên cam kết thỏa thuận mà người có nghĩa vụ vi phạm thì trách nhiệm đó được coi là trách nhiệm theo hợp đồng. Nếu nghĩa vụ được quy định bởi các quy định pháp luật nói chung mà người có nghĩa vụ vi phạm thì trách nhiệm đó được coi là trách nhiệm ngoài hợp đồng. Trách nhiệm dân sự bao gồm xin lỗi, cải chính công khai, buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự, buộc bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm.

Luật sư tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568

1. Trách nhiệm dân sự là gì?

Để tìm hiểu trách nhiệm dân sự theo nghĩa tổng quát nhất nên đi tìm hiểu trước hết thế nào là trách nhiệm? Và trách nhiệm dân sự có phải là một trách nhiệm pháp lý không?

Theo Từ điển Tiếng Việt, trách nhiệm có thể được hiểu theo hai nghĩa: Một là “phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả”, hai là “sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì phải gánh chịu phần hậu quả

Và với trách nhiệm pháp lý, khi đó trách nhiệm đã được điều chỉnh và bảo vệ bởi các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và “hậu quả” này sẽ là “ hậu quả bất lợi” được áp dụng đối với những người phải chịu trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có vi phạm pháp luật và đó là hậu quả của hành vi vi phạm đồng thời trách nhiệm pháp lý thể hiện được sự răn đe đối với những hành vi vi phạm và thể hiện sự răn đe của Nhà nước đối với những hành vi vi phạm.

Như vậy, khái niệm tiếp theo cần tiếp cận đó là thế nào là trách nhiệm pháp lý? Trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi (sự trừng phạt) đối với chủ thể vi phạm pháp luật, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa Nhà nước với các chủ thể vi phạm pháp luật, được các quy phạm pháp luật xác lập và điều chỉnh, trong đó chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu những hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế được quy định ở chế tài các quy phạm pháp luật.

Từ đây có thể rút ra được những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý:

  • Từ định nghĩa có thể hiểu đặc điểm đầu tiên và quan trọng của trách nhiệm pháp lý là “hậu quả bất lợi”( là sự trừng phạt) hay có thể hiểu đó là những chế tài mà pháp luật đặt ra nhằm thể hiện thái độ khoog chỉ là sự trừng phạt, răn đe mà còn giáp dục đối với những hành vi vi phạm pháp luật
  • Mục đích của trách nhiệm pháp lý không chỉ là trừng trị hành vi vi phạm mà bên cạnh đó còn là sự khôi phục lại tình trạng tương ứng với phần hậu quả mà người vi phạm đã gây ra do không thực hiện nghĩa vụ của mình.. Vì vậy có thể rút ra kết luận: Trách nhiệm pháp lý có tính đền bù.

Thứ ba:Đặc điểm về hình thức của trách nhiệm pháp lý chỉ tồn tại khi được quy định trong các văn bản pháp luật do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ban hành, tức chỉ Nhà nước có quyền xác định hành vi nào là vi phạm pháp luật và các chế tài tương ứng với mỗi vi phạm đó.

Kết luận: Trên đây là khái niệm và đặc điểm về trách nhiệm pháp lý, đây là bước đầu tiên cho việc đi tìm câu trả lời trách nhiệm dân sự có phải là trách nhiệm pháp lý hay không?

Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với người vi phạm pháp luật dân sự nhằm bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần cho người bị thiệt hại. Nếu hiểu theo nghĩa này, trách nhiệm dân sự là loại trách nhiệm pháp lý được đặt ra khi và chỉ khi có sự vi phạm pháp luật dân sự

Trong số chuyên đề đề về bộ luật dân sự .Tạp chí Dân chủ và pháp luật của Bộ Tư pháp lại đưa ra cách tiếp cận trách nhiệm dân sự khác so với cách tiếp cận của Từ điển giải thích thuật ngữ luật học. Trách nhiệm dân sự (theo nghĩa rộng) là các biện pháp có tính cưỡng chế được áp dụng nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu của một quyền dân sự bị vi phạm. Trách nhiệm dân sự (theo nghĩa hẹp) là các biện pháp có tính cưỡng chế áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật gây ra thiệt hại cho người khác, người gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm khắc phục những hậu quả xấu xảy ra bằng tài sản của mình (trong đó có bồi thường thiệt hại trong hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng).

Nhận xét: Từ hai cách tiếp cận trên, nhận thấy rằng dù tiếp cận theo khía cạnh nào thì trách nhiệm dân sự vẫn được coi đó là một trách nhiệm pháp lý. Như vậy, có thể khẳng định cho câu hỏi trên: Trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý.

2. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự:

Như trên đã phân tích, trách nhiệm dân sự được hiểu là một trách nhiệm pháp lý cho nên nó sẽ mang những đặc tính nói chung của trách nhiệm pháp lý. Tuy nhiên, vì đây là trách nhiệm dân sự nói riêng nên sẽ có những đặc điểm riêng biệt thuộc về trách nhiệm dân sự

Thứ nhất: Căn cứ phát sinh trách nhiệm dân sự phải là hành vi vi phạm pháp luật dân sự: Đó là việc không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của người có nghĩa vụ dân sự;

Thứ hai: Trách nhiệm dân sự là biện pháp cưỡng chế mang tính tài sản. Trong quan hệ nghĩa vụ dân sự mục đích mà các bên hướng đến là lợi ích. Chính vì vậy, lợi ích mà các bên hướng tới sẽ mang tính tìa sản và đó là trách nhiệm bù đắp cho bên bị vi phạm một lợi ích nhất định từ bên vi phạm

Thứ ba: Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm của bên vi phạm trước bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm

Thứ tư: Chủ thể chịu trách nhiệm dân sự ngoài người vi phạm nghĩa vụ còn có thể là những chủ thể khác như: Pháp nhân, cơ quan, tổ chức, người đại diện theo pháp luật cho người chưa thành niên…

Thứ năm: Hậu quả bất lợi mà người vi phạm nghĩa vụ phải gánh chịu có thể là việc phải thực hiện nghĩa vụ, thực hiện đúng và thực hiện đủ nghĩa vụ và nếu có thiệt hại thực tế từ vi phạm đó thì sẽ phát sinh thêm trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Thứ sáu: Trách nhiệm dân sự nhằm đền bù hoặc khôi phục lại quyền và lợi ích bị xâm phạm.

3. Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự:

Các bên phải nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình và tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, nếu không tự nguyện thực hiện thì có thể bị cưỡng chế thực hiện theo quy định của pháp luật.

4. Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ:

-Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.

-Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ.

-Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

-Bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền.

Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ là sự quy định của pháp luật về việc người nào vi phạm nghĩa vụ dân sự hoặc có hành vi trái pháp luật khác phải gánh chịu một hậu quả pháp lý nhất định như phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ dân sự, bồi thường thiệt hại. Nghĩa vụ là một quan hệ pháp luật được hình thành trên cơ sở thỏa thuận hoặc pháp luật quy định. Khi đã xác lập quan hệ nghĩa vụ với nhau, bên nghĩa vụ bị ràng buộc trách nhiệm bởi lợi ích của bên có quyền.

Do đó, bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của mình sẽ mang lại tổn thất về tài sản hoặc tinh thần cho bên có quyền. Cho nên, hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ sẽ mang đến hậu quả bất lợi cho người này. Họ có thể phải gánh chịu hậu quả buộc phải thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ hoặc là bồi thường thiệt hại cho bên có quyền.

Đó là trách nhiệm dân sự, một loại chế tài áp dụng cho người có hành vi vi phạm nghĩa vụ của mình. Hiện nay thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ của mình nhưng không do lỗi của chính họ hoặc hoàn toàn dựa trên yếu tố khách quan mà bằng khả năng của mình họ không khắc phục, hạn chế được thiệt hai xảy ra cho bên có quyền. Do đó, pháp luật đã dự liệu những trường hợp sau bên có nghĩa vụ vi phạm có thể không phải chịu trách nhiệm.

– Xuất hiện sự kiện bất khả kháng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác. Nếu xuất hiện sự kiện bất khả kháng làm cho bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ thì bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, nếu các nên thỏa thuận ngay cả khi xảy ra sự kiện bất khả kháng bên có nghĩa vụ vẫn phải chịu trách nhiệm khi vi phạm nghĩa vụ của mình thì sự thỏa thuận được ghi nhận và thực hiện.

– Bên vi phạm nghĩa vụ chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền. Thông thường bên có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm dân sự nếu đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự mà bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ trước bên có quyền.

THCS Hồng Thái

“Đừng xấu hổ khi không biết, chỉ xấu hổ khi không học.” Khuyết Danh
Back to top button