Tra Cứu

Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà

Tài liệu hướng dẫn phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà do thcs Hồng Thái tổng hợp và biên soạn bao gồm những gợi ý phân tích đề, mẫu dàn ý chi tiết bám sát hệ thống luận điểm. Ngoài ra, bài viết cũng sẽ giới thiệu một số bài văn mẫu hay cho các em tham khảo để có thêm ý tưởng cho bài văn của mình được hay và hấp dẫn hơn.

Tham khảo ngay…

Bạn đang xem: Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà

I. Hướng dẫn phân tích đề bài văn phân tích Hầu trời (Tản Đà)

Đề bài: Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà.

1. Xác định yêu cầu đề bài

– Yêu cầu về nội dung: phân tích nội dung và nghệ thuật của bài thơ Hầu trời

– Phạm vi tư liệu dẫn chứng: các từ ngữ, chi tiết, hình ảnh, câu thơ… trong văn bản Hầu trời của Tản Đà

– Phương pháp lập luận chính: phân tích

2. Hệ thống luận điểm bài thơ Hầu trời

Luận điểm 1: Giới thiệu câu chuyện, lí do và thời điểm nhân vật trữ tình hầu trời

Luận điểm 2: Diễn biến buổi hầu trời

Luận điểm 3: Lời trần tình của tác giả về cảnh ngộ ở trần gian, về nghề văn của mình

Luận điểm 4: Cảm nghĩ của tác giả khi về lại trần gian

3. Kiến thức cần củng cố trước khi làm bài

a) Kiến thức cơ bản về tác giả Tản Đà

– Tản Đà (1889 – 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở Hà Tây, nằm bên bờ sông Đà, gần chân núi Tản Viên.

– Sinh ra và lớn lên trong thời buổi giao thời, Hán học đã tàn mà Tây học cũng mới bắt đầu nên con người ông kể cả học vấn, lối sống, sự nghiệp văn chương đều mang dấu ấn “Người của hai thế kỉ”.

– Học Hán học từ nhỏ nhưng sau hai khóa thi Hương ông đã bỏ thi chuyển sang sáng tác bằng chữ Quốc ngữ

– Vào giữa những năm 20 của thế kỉ XX, cái tên Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng trên thi đàn và là người của hai thế hệ (Nho học và Tây học) khi thơ văn của ông có thể xem như một gạch nối giữa hai thời đại văn học: trung đại và hiện đại.

– Từ 1915 đến 1926 là những năm tháng đắc ý nhất của Tản Đà: “Khối tình con I” được xuất bản, sau đó là cuốn “Giấc mộng con”, một số vở tuồng, viết sách, truyện,…

– Ngày 7 – 6 – 1939, Tản Đà mất sau một thời gian chống chọi với bệnh gan, hưởng dương 50 tuổi.

– Phong cách của Tản Đà được gói gọn trong ba chữ: sầu – mộng – ngông, thơ văn ông chính là gạch nối giữa hai thời đại văn học trung đại và hiện đại của dân tộc.

– Các tác phẩm chính: Khối tình con I, II (thơ, 1916 – 1918), Khối tình bản chính, Khối tình bản phụ (luận thuyết – 1918), Giấc mộng con I, II (Truyện phiêu lưu viễn tưởng, 1916, 1932), Thơ Tản Đà (1925), Còn chơi (Thơ và văn xuôi, 1921), Giấc mộng lớn (Tự truyện – 1928)…

b) Kiến thức chung về tác phẩm Hầu trời 

– Hoàn cảnh xuất xứ tác phẩm: Bài thơ Hầu trời được in trong tập “Còn chơi” xuất bản năm 1921 trong hoàn cảnh khuynh hướng lãng mạn khá đậm nét trong văn chương thời đại, xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy cảnh ngang trái, xót đau.

– Tóm tắt nội dung bài thơ: Nội dung bài thơ là câu chuyện kể về nghệ sĩ Nguyễn Khắc Hiếu lên hầu trời, đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe. Trời và chư tiên tấm tắc khen hay và hỏi chuyện. Tác giả đã đem những chi tiết thực về thơ và cuộc đời mình, đặc biệt là cảnh nghèo khổ của người sáng tác văn chương dưới hạ giới cho Trời nghe. Trời cảm động, thấu hiểu tình cảnh, nỗi lòng của người thi sĩ.

– Giá trị nội dung: Bộc lộ cái tôi cá nhân, một cái tôi ngông, phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình; và khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời.

– Đặc sắc nghệ thuật: Thể thơ trường thiên tự do; ngôn ngữ tự nhiên, gần gũi nhưng có sự chọn lọc tinh tế; cách kể chuyện hóm hỉnh, sống động

– Ý nghĩa nhan đề “Hầu trời”: thể hiện khát vọng muốn khẳng định chính mình giữa cuộc đời và vừa thể hiện lãng mạn, bay bổng vừa cái ngông của tác giả.

(Chi tiết xem thêm nội dung soạn bài Hầu trời của Tản Đà đã được nghiên cứu và tìm hiểu trên lớp)

II. Lập dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Hầu trời

1. Mở bài phân tích Hầu trời

– Giới thiệu về tác giả Tản Đà và bài thơ Hầu trời

+ Tản Đà (1889 – 1939) tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, quê làng Khê Thượng, xã Sơn Đà (Ba Vì, Hà Tây), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20.

+ Hầu trời trích từ tập “Còn chơi” thể hiện cái tôi ngông của tác giả cũng như nỗi ngậm ngùi cho cảnh ngộ bản thân nói riêng và văn nghệ sĩ đương thời nói chung.

– Dẫn dắt vào vấn đề.

2. Thân bài phân tích Hầu trời

a) Luận điểm 1: Giới thiệu câu chuyện, lí do và thời điểm nhân vật trữ tình hầu trời

* Tình huống:

– Trong đêm: Tiếng ngâm thơ vang cả sông Ngân Hà -> trời mất ngủ => cho mời nhà thơ hầu trời

– Tác giả đặt vấn đề cho vẻ khách quan: chẳng biết câu chuyện tôi sắp kể chẳng biết có hay không?

– Tác giả vẫn khẳng định câu chuyện có vẻ là thật bằng việc dùng bốn câu khẳng định “Thật hồn…” và hàng loạt dấu cảm thán để khẳng định độ chân thật của câu chuyện sắp kể.

-> Cách vào đề của Tản Đà dùng cách nói phủ định: không mơ màng, chẳng phải hoảng hốt, vừa tạo cảm giác đây là cột câu chuyện không có thật (mơ), vừa tạo được niềm tin rằng đây là câu chuyện có thật.

=> Cách vào đề thật độc đáo và có duyên, tạo không khí li kì, hấp dẫn, kích thích sự tò mò của người đọc.

b) Luận điểm 2: Diễn biến buổi hầu trời

* Thi sĩ đọc thơ cho trời và chư tiên nghe

– Không khí ở nhà trời với cách đón tiếp:

+ để ghế cho ngồi

+ pha nước cho uống

+ chư tiên im lặng hai bên

-> Không khí rất phù hợp với buổi đọc thơ.

– Thi sĩ:

+ cao hứng đọc hết văn vần sang văn xuôi, hết văn thuyết lí lại sang văn chơi

+ rất đắc ý nên càng đọc càng có cảm xúc nên đọc rất hay: “văn dài hơi tốt ran cung mây

– Chư tiên nghe thơ rất tán thưởng, hâm mộ, Trời không tiếc lời tán dương: “Tâm như nở dạ, cơ lè lưỡi”, “Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày”, “Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng”, “Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay”…

-> Cái tôi của Tản Đà ngông nghênh, độc đáo, cá tính, lãng mạn.

– Thi sĩ ý thức rõ về tài năng thơ văn của mình:

+ Tìm tri kỉ ở tận cõi trời -> khao khát được khẳng định tài năng trước cuộc đời.

+ Tư tưởng thoát li mang màu sắc lãng mạn

* Thi sĩ giới thiệu về mình

– Họ – tên, quê sông Đà, núi Tản nước Nam Việt -> ý thức cá nhân, dân tộc đậm nét

– Thân thế: Một vị trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội ngông

– Thiên chức: Truyền bá thiên lương, làm hưng thịnh ở hạ giới -> cao cả, tốt đẹp

=> Ý thức trách nhiệm và khát khao được gánh vác việc đời

c) Luận điểm 3: Lời trần tình của tác giả về cảnh ngộ ở trần gian, về nghề văn của mình

– Được trời hỏi thăm về tình hình văn chương dưới hạ giới thi sĩ liền trình bày tình cảnh khốn khổ của kẻ theo đuổi nghề văn trong xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ:

+ không tấc đất cắm dùi

+ văn chương bị rẻ rúng

+ làm chẳng đủ ăn

+ bị o ép đủ chiều

-> Nghề văn cũng là một nghề kiếm sống nhưng bèo bọt, cuộc sống cơ cực, nghèo khó

=> Giọng thơ chua chát, xót xa

d) Luận điểm 4: Cảm nghĩ của tác giả khi về lại trần gian

– Trách nhiệm và khát vọng của thi nhân:

+ Nhiệm vụ trời giao: Truyền bá thiên lương.

=> Tản Đà lãng mạn chứ không hoàn toàn thoát li cuộc sống. Ông vẫn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đời để đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn.

+ Thi nhân khát khao được gánh vác việc đời => Một cách tự khẳng định mình trước thời cuộc.

=> Trong thơ Tản Đà cảm hứng lãng mạn và cảm hứng hiện thực đan xen khăng khít với nhau.

3. Kết bài phân tích Hầu trời

– Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

– Nêu nhận xét, cảm nhận chung của em

– Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân.

Ngoài ra, các em cũng có thể tham khảo thêm mẫu dàn ý phân tích Hầu trời đầy đủ từ chung đến riêng do thcs Hồng Thái tổng hợp và biên soạn.

III. Danh sách top 5 bài văn phân tích Hầu trời hay được đánh giá cao

Nhằm giúp các em nắm rõ hơn cách làm cũng như mở rộng vốn từ ngữ trước khi làm bài, thcs Hồng Thái đã sưu tầm gửi đến các em tham khảo #5 mẫu bài văn phân tích Hầu trời chi tiết dưới đây. Cùng tham khảo nhé!

1. Phân tích bài Hầu trời mẫu số 1

Tản Đà là một nhà thơ kiệt xuất thuộc thế kỉ cuối cùng của nền Hán học Việt Nam. Mặc dù vậy Tản Đà được xem là gạch nối của thơ ca nước ta giữa hai thế kỉ. Tuy xuất thân từ nề nếp nho phong cũ nhưng ông lại có tâm hồn lãng mạn, sáng tạo ra những câu thơ mà ta thấy nó không xa lạ lắm so với nền thơ ca hiện đại, nền thơ mới, cả về thể điệu, hình ảnh, ngôn ngữ và nhất là tâm tình. Ta có thể hiểu thêm về thơ và những đóng góp của ông cho văn học Việt Nam qua bài thơ “Hầu trời” bài thơ thể hiện cái tôi cá nhân của chính tác giả.

Cả bài thơ đó là một câu chuyện được lồng vào thơ, qua đó chi chúng ta thấy được tác giả là một người có tính cách táo báo, hơi ngông, biểu hiện ngay ở nhan đề bài thơ “hầu trời”. Trong bài thơ, Tản Đà thể hiện cái tôi cá nhân, cái tôi lãng mạn và đó cũng chính là khía cạnh tâm hồn của ông, một cái tôi “ngông” đó chính là tính cách của nhà thơ.

Như chúng ta đã biết thơ chính là người, bài thơ là một giấc mộng trong rất nhiều giấc mộng của Tản Đà, giấc mộng lên trời được đọc thơ cho trời nghe và đằng sau giấc mộng đó là con người Tản Đà, tâm hồn Tản Đà và cá tính của ông. Để làm rõ được cái hay, cái đẹp của bài thơ, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về cái tôi của nhà thơ và đặc sắc nghệ thuật được thể hiện trong thơ của ông.

Sự hiện diện của cái tôi lãng mạn được thể hiện ngay từ giấc mộng được lên trời đọc thơ, giới thiệu thơ văn của mình cho các tri tiên và trời nghe. Qua đó thể hiện sự khát vọng muốn được thể hiện mình, thể hiện tài năng, hơn thế nữa, tác phẩm của ông không bị trời phạt mà được mọi người khen ngợi hết lời. Điều đó nói lên rằng, trời biết xem trọng tài năng, gia trị thơ ca:

“Đêm qua chẳng biết có hay không,

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thế!

Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.

Nguyên lúc canh ba nằm một mình,

Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh.

Nằm buồn, ngồi dậy đun nước uống,

Uống xong ấm nước, nằm ngâm văn.

Chơi văn ngâm chán lại chơi trăng

Ra sân cùng bóng đi tung tăng

Trên trời bỗng thấy hai cô xuống

Miệng cười tủm tỉm cùng nói rằng:

– “Trời nghe hạ giới ai ngâm nga,

Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà!

Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng

Có hay lên đọc, Trời nghe qua”.

Rồi thì ông được trư tiên và trời khen ngợi làm ông càng hào hứng để đọc, lúc đầu ông cứ nghĩ lên đọc để mình có dịp thể hiện tài năng cho trời biết, nhưng rồi không ngờ mọi người lại thích và đồng tình:

Đọc hết văn vần lại văn xuôi

Hết văn thuyết lý lại văn chơi

Đương cơn đắc ý đọc đã thích

Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.”

Đoạn thơ này tác giả đã sử dụng biện pháp liệt kê “hết”, “lại” thể hiện giọng thơ phấn khởi, nhiệt tình và hào hứng của Tản Đà.

“Những áng văn con in cả rồi

Hai quyển “Khối tình” văn thuyết lý

Hai “Khối tình con” là văn chơi

“Thần tiền”, “Giấc mộng” văn tiểu thuyết

“Đài gương”, “Lên sáu” văn vị đời

Quyển “Đàn bà Tàu” lối văn dịch

Đến quyển “Lên tám” nay là mười

Nhờ Trời văn con còn bán được

Chửa biết con in ra mấy mươi?”

Tác giả sử dụng biện pháp liệt kê, thể hiện được tài năng tài hoa của mình, biểu hiện là ông kể hết quyển sách này đến quyển sách khác, ở nhiều tác phẩm khác nhau với nhiều phong cách khác nhau như văn chơi, văn tiểu thuyết, văn dịch,…

Cái tôi lãng mạn của ông được thể hiện rất rõ ở giấc mơ của ông, giấc mơ được lên trời của người thi sĩ nơi trần gian, muốn kể cho trời nghe về cuộc sống dưới trần gian như thế nào để người hiểu hơn.

“Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó

Trần gian thước đất cũng không có

Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều

Vốn liếng còn một bụng văn đó.

Giấy người mực người thuê người in

Mướn cửa hàng người bán phường phố.

Văn chương hạ giới rẻ như bèo

Kiếm được đồng lãi thực rất khó.

Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều

Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.

Lo ăn lo mặc hết ngày tháng

Học ngày một kém tuổi ngày cao

Sức trong non yếu ngoài chen rấp

Một cây che chống bốn năm chiều.

Trời lại sai con việc nặng quá

Biết làm có được mà dám theo”.

Tản Đà đã tâm sự về cuộc sống nghèo khó của người thi sĩ dưới trần gian, bên cạnh việc phô diễn tài năng, Tản Đà còn gửi gắm cả tâm sự của mình, qua đó để thể hiện của người nghệ sĩ đó là được khẳng định tài năng của mình, muốn tài năng của mình được mọi người chấp nhận, cùng đồng cảm và chia sẻ cùng ông về văn thơ cũng như tâm sự đời thường mà ông và mọi người đang cảm thấy bất lực, bí bách, không lối thoát. Tác giả lên trời để phô thơ, phô diễn tài năng và kể về cuộc sống của mình, được mọi người trân trọng giá trị, trân trọng tài năng của mình.

Trong giấc mộng lên trời ấy ta thấy rõ cái tôi của Tản Đà, khát vọng về tự do, khát vọng về cõi tri âm và rộng ra đó là khát vọng về một xa hội tự do, lên trời để đọc thơ thể hiện khao khát được khẳng định tài năng của mình, khao khát nghệ thuật được trân trọng, thể hiện được cái tôi nghệ sĩ, bay bổng nhưng cái tôi đó có bay bổng tới đâu, cho dù có cách li với cuộc sống trần thế thì vẫn bắt rễ với cuộc đời này. Thể hiện ông là một con người thật sự có trách nhiệm với đời với văn chương.

Bên cạnh cái tôi lãng mạn thì cái tôi “ngông” cũng được Tản Đà thể hiện rõ trong bài thơ này, qua những hành động và lời này của ông, đó là giấc mơ lên trời để được đọc thơ, để được mọi người công nhận tài năng của mình. Chính Tản Đà tự khen mình nhưng đó không phải là cái khen vô cớ, vô lý mà điều đó được thể hiện qua việc thơ của ông được trời và trư tiên đồng tình, hết lời khen ngợi:

“Văn dài hơi tốt ran cung mây!

Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay,

Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi

Hằng Nga, Chúc Nữ chau đôi mày”

Thơ ông được trời khen hay:

“Văn đã giàu thay, lại lắm lối

Trời nghe Trời cũng bật buồn cười!

Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:

– “Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”

Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!

Văn trần được thế chắc có ít!

Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng! Tinh như sương!

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!

Chẳng hay văn sĩ tên họ gì?

Người ở phương nào, ta chưa biết”.

Đây là những câu thơ trời khen tác giả, nhưng sự thật là chính tác giả khen mình, tác giả sử dụng biện pháp so sánh để khen ngợi vẻ đep, sự tinh túy của đất trời và sự vật nhưng thực chất là tự khen mình.

Tản Đà cho rằng việc sáng tác thơ ca của ông là ông đang gánh vác trách nhiệm của nhân loại, qua đó cho thấy được ý thức trách nhiệm của nhà thơ đối với cuộc đời, điều đó cũng chính là những bộc bạch của ông, ông đã ý thức được giá trị thơ văn của mình trong cuộc đời này để cuộc đời càng trở nên đẹp và có ý nghĩa hơn. Bởi ông biết rằng văn chương thời đó thì rẻ như bèo, cuộc sống của những người thi sĩ lại vô cùng nghèo khó nhưng ông đã dũng cảm dùng văn chương của mình để kiếm sống và làm đẹp cho đời, thể hiện một cái tôi bản lĩnh.

Cái ngông chính là cá tính của con người được biểu hiện qua lời nói, hành động, cử chỉ và thái độ sống. Với giọng điệu và ngôn ngữ rất tự nhiên, rất phong túng với một loạt cảm thán kiểu trầm trồ, thán phục, tự đề cao tài năng của mình, ông xem mình như là người của trời, là con trời được phái xuống trần gian đề truyền bá những cái hay, cái đẹp cho đời, tự ý thức sâu sắc về bản thân, về tài năng, phẩm chất, giá trị tài năng đích thực của mình.

Tản Đà mạnh dạn thể hiện tài năng bản ngã: cái tôi cá nhân, một cái tôi phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời, cái ngông của tác giả chính là vẻ đẹp thực sự của một con người có tài năng và bản lĩnh cứng cỏi. Có thể nói, có tài năng như thế ông xứng đáng nhận được cuộc sống sung túc hơn nhưng ông lại chấp nhận dám sống bằng tài năng, do vậy trong cuộc đời của ông ông sống một cuộc sống vô cùng nghèo khổ.

Qua câu chuyện “hầu trời” tác giả đã thể bản ngã, cái tôi cá nhân, hiếm có, đáng trân trọng, sáng tạo nghệ thuật mới mẻ và đặc sắc. “Hầu trời” chính là minh chứng cho sự ra đời và phát triển văn học, thơ Tản Đà là gạch nối giữa hai thế kỉ văn học hiện đại và trung đại ở các tín hiệu nghệ và cảm xúc của cái tôi.

(Nguồn: Vanmau.top)

2. Phân tích bài Hầu trời mẫu số 2

Tản Đà được coi là “người nằm vắt mình qua hai thế kỉ”, là gạch nối giữa thơ mới và thơ cũ, là người đặt nền móng cho thơ mới. Những đánh giá ấy đã xác nhận vị trí quan trọng của Tản Đà đối với văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Ông là đại diện tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn này, giai đoạn văn học dân tộc có những bước chuyển mình, bắt đầu cho giai đoạn hiện đại hóa mau lẹ. Hầu trời là một bài thơ có rất nhiều điểm mới. Bài thơ thể hiện đậm nét cá tính sáng tác của Tản Đà.

Mạch thơ được triển khai theo lôgíc một câu chuyện với các chi tiết cụ thể, rành mạch, khiến cho bài thơ hấp dẫn và có sức thuyết phục: Nằm một mình, buồn nên dậy đun nước uống rồi ngâm văn, động đến Trời, tiên xuống hỏi rồi đưa lên gặp Trời, Trời cùng chư tiên đón tiếp long trọng, mời đọc thơ, giới thiệu về mình rồi đọc thơ và giãi bày cảnh ngộ cùng Trời, Trời giải thích, khen ngợi rồi cho đưa về trần giới. Nhà thơ đã chọn một cách rất độc đáo để thể hiện tâm sự của mình.

Chuyện hầu Trời bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ khẳng định tài năng của bản thân và bộc lộ quan niệm mới mẻ của ông về nghề văn, đồng thời thể hiện ý thức của cái Tôi cá nhân đầy cá tính của mình. Nhà thơ đã mở đầu câu chuyện của mình bằng một giọng điệu rất hấp dẫn, bịa mà rất tự nhiên, hóm hỉnh:

Đêm qua chẳng biết có hay không,

Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.

Lí do được Trời mời lên hầu cũng thật đời thường và dễ tin: Nằm buồn dậy đun nước uống, rồi ngâm thơ, chơi trăng. Và “Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” đã làm Trời mất ngủ. Thế là được lên Trời. Cuộc hội kiến với Trời và chư tiên được kể lại chi tiết, hồn nhiên, nghe tự nhiên như thật. Tác giả đã chọn lối kể chuyện nôm na của dân gian để tái hiện câu chuyện hầu Trời.

Nhà thơ tưởng tượng tình huống gặp Trời để giới thiệu về mình. Giới thiệu rõ, chính xác tên tuổi, quê hương, đất nước, nghề nghiệp, kể tên các tác phẩm của mình. Nhà thơ đã chọn tình huống độc đáo: Gặp Trời, ngâm thơ cho Trời cùng chư tiên nghe, qua đó khẳng định tài năng của mình. Khẳng định một cách rất tự nhiên:

Đương cơn đắc ý đọc đã thích

Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.  

Văn dài, hơi tốt ran cung mây!…

Tự khen tài của mình nhưng lại chọn hình thức để Trời cùng chư tiên khen ngợi. Đây là một kiểu ngông đáng yêu.

Sau khi giới thiệu các tác phẩm, có phân chia rõ ràng thành từng loại theo quan điểm của bản thân (văn thuyết lí, văn chơi, văn tiểu thuyết, văn vị đời và lối văn dịch) thì đưa ra nhận xét, cùng với những nhận xét của Trời “Văn đã giàu thay, lại lắm lối” (đa dạng về thể loại, giọng điệu). Nhà thơ lại còn mượn lời của Trời để khẳng định tài năng của bản thân:

Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt

Văn trần được thế chắc có ít!…

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”

Nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái Tôi của mình, gắn liền với tên tuổi thật của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài và biết trân trọng, khẳng định tài năng của mình. Trong thời đại của Tản Đà, đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu như còn là biểu hiện của sự tự hào, tự tôn dân tộc. Hóm hỉnh hơn, nhà thơ còn khẳng định cả phong cách ngông của mình:

– “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu

Đày xuống hạ giới vì tội ngông.”

Qua cuộc đối thoại tưởng tượng với Trời, nhà thơ còn khẳng định nghĩa vụ và trách nhiệm cao cả của mình nói riêng và của người nghệ sĩ nói chung là lo việc “thiên lương” của nhân loại:

Trời rằng: “Không phải là Trời đày,

Trời định sai con một việc này

Là việc “thiên lương” của nhân loại,

Cho con xuống thuật cùng đời hay.”

Tạo tình huống tưởng tượng này để an ủi mình, đồng thời cũng là để nói lên ý nghĩa cao quý của văn chương, của nhà văn.

Cũng nhân đây, nhà thơ giãi bày tâm sự của mình về nghề văn. Tản Đà được coi là người đặt nền móng cho thơ Mới, không chỉ bởi thơ ông mang hơi thở hiện đại của thời đại với cái Tôi cá nhân sừng sững giữa trang văn mà còn vì ông là nhà thơ đầu tiên “mang văn chương ra bán phố phường”, coi nghề văn là nghề kiếm sống. Khi giãi bày cảnh ngộ với Trời, nhà thơ đã kể lể rất chi tiết về nghề làm văn kiếm sống này. Tản Đà cũng đã dùng lời Trời để tự an ủi mình.

Với Hầu Trời, Tản Đà đã mang đến cho văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX một không khí mới. Dưới hình thức một bài thơ – câu chuyện tưởng tượng vui và đầy hào hứng, nhà thơ đã khẳng định cái Tôi cá nhân của người nghệ sĩ. Nhà thơ vừa tự tin khẳng định tài năng của mình vừa nói lên quan điểm làm văn chương, đó là viết văn để phục vụ thiên lương. Viết văn hay làm cho đời đẹp hơn là nhiệm vụ trời đã trao cho người nghệ sĩ.

Sáng tạo độc đáo về mặt nghệ thuật của Tản Đà là đã đưa ngôn ngữ đời thường nôm na, dễ hiểu, dung dị mà vẫn rất gợi cảm vào thơ ca. Ngôn ngữ thơ ở Hầu Trời đã có sự xâm nhập của giọng điệu văn xuôi và ngôn ngữ bình dân. Không quá câu nệ vào vần luật nên mạch cảm xúc được phát triển rất tự nhiên và cái Tôi cá nhân đã thoả sức bộc lộ và thể hiện mình. Điểm độc đáo và thành công của bài thơ còn thể hiện ở chỗ tạo ra cái cớ là tình huống hầu Trời để tự khẳng định tài năng và quan niệm của mình. Đó là một kiểu ngông rất nghệ sĩ, vui vẻ và đáng yêu. Bài thơ cũng đã phác hoạ một chân dung thi sĩ Tản Đà với phong cách ngông độc đáo, đó là cái ngông của một nhà nho tài tử ở thời kì mà ý thức cá nhân bắt đầu được trân trọng và khẳng định.

3. Phân tích bài Hầu trời mẫu số 3

Tản Đà dấu gạch nối, bản lề khép mở giữa hai giai đoạn văn học Việt Nam. Ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, phong phú trên nhiều thể loại. Tác phẩm của ông thể hiện cái tôi vừa lãng mạn, bay bổng vừa ngông nghênh. Chính những yếu tố đã tạo nên dấu ấn riêng biệt cho thơ văn Tản Đà. “Hầu trời” có thể coi là một trong những tác phẩm hay nhất, kết tinh giá trị nội dung, nghệ thuật của Tàn Đà.

Cách Tản Đà mở đầu tác phẩm của mình hết sức đặc biệt:

“Đêm qua chẳng biết có hay không,

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

Thật được lên tiên sướng lạ lùng.”

Câu thơ đầu tiên là nỗi băn khoăn hết sức chân thật, liệu đêm qua có là thực, hay chỉ là hư. Hỏi đấy rồi để câu thơ 2,3,4 ông đã tự trả lời cho chính những băn khoăn ấy: Tản Đà khẳng định giấc mơ đêm qua bằng cách phủ định liên tiếp, từ “thật” được lặp lại bốn lần: “thật hồn, thật phách, thật thân thể, thật được lên tiên” để nhấn mạnh những cung bậc cảm xúc mà đêm qua chính ông đã được trải nghiệm, đó là nỗi “sướng lạ lùng”. Đây chính là cách Tản Đà dìu dắt người đọc vào thế giới mộng tưởng, vào giấc mơ đêm qua của ông.

Trong đêm trăng thanh gió mát, giữa lúc canh ba yên ắng, tĩnh mịch, Tản Đà nằm buồn uống nước và ngâm văn thì bỗng thấy có hai cô tiên xuống đón ông lên trời. Chuyện dường như hoàn toàn hư cấu, khó lòng có thể tin được nhưng bằng cách giải thích dí dỏm, hài hước, Tản Đà đã khiến cho lí do đó trở nên chân thực, đồng thời còn khẳng định được tài năng của bản thân: “Trời nghe hạ giới ai ngân nga/ Tiếng ngân vang cả sông Ngân Hà/ Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng/ Có hay lên đọc, Trời nghe qua”.

Trước sự đón tiếp nồng hậu, nhiệt tình của thiên giới, thi sĩ hăng say thể hiện bản thân:

“Đọc hết văn vần sang văn xuôi

Hết văn thuyết lí lại văn chơi”

Và ông tự lên tiếng khẳng định, tự khen tài năng văn chương của bản thân “văn dài hơi tốt”, “văn đã giàu thay lại lắm lối”. Ông khẳng định tài năng của bản thân không chỉ ở phần nội dung, nghệ thuật mà văn chương còn đồ sộ về số lượng, phong phú về thể loại. Trước tài năng của Tản Đà ai nấy đều cảm thấy vui sướng, hạnh phúc: Trời “lấy làm hay”, “bật buồn cười”. Các vị chư tiên “nở dạ” (sung sướng), “lè lưỡi” (thán phục), “chau mày” (suy ngẫm), “lắng tai” (chăm chú), “cùng vỗ tay” (tán dương), ao ước mong mỏi sở hữu những bài thơ bài văn ấy. Và họ tranh nhau dặn:

– “Anh gánh lên đây bán chợ Trời”

Những lời tán dương, ngợi khen của các vị chư tiên lại một lần nữa khẳng định tài năng của Tản Đà:

“Nhời văn chuốt đẹp như sao băng

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng, tinh như sương

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết.”

Hàng loạt hình ảnh so sánh đẹp đẽ nhất, tinh khiết nhất: sao băng, mây chuyển, tinh như sương, đầm như mưa sa, lạnh như tuyết, đã diễn tả những vẻ đẹp đa dạng, phong phú trong thơ văn Tản Đà. Đồng thời cho thấy niềm sây mê ngưỡng mộ của họ đối với thi nhân. Niềm đam mê văn chương đã xóa nhòa khoảng cách giữa một người trần mắt thịt với những người của nhà Trời. Dường như đến với nghệ thuật, chính cái hay, cái đẹp là sợi chỉ kết nối những tâm hồn nghệ sĩ với nhau, giữa chiếu văn chương không còn người nhà Trời với người trần, không còn người bề trên với kẻ bề tôi, mà chỉ còn quan hệ giữa tác giả và độc giả.

Đoạn thơ đã cho người đọc phần nào thấy được con người của Tản Đà, ông là một người tự tin, kiêu hãnh với tài năng của bản thân, ông ý thức được giá trị của chính mình. Nhưng đồng thời cuộc vượt thoát lên chốn tiên giới này cũng cho thấy sự cô đơn, lạc lõng của ông với cuộc đời. Ông khao khát tìm được tri âm để có thể thấu hiểu tất thảy những tâm tư, tình cảm của mình. Đây đồng thời cũng là khát vọng chung của những người nghệ sĩ đương thời.

Sau khi đem tài năng thể hiện cho mọi người, Tản Đà đồng thời cũng đem những tâm sự rất thực chia sẻ với Trời cùng các chư tiên: “Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó/ Trần gian thước đất cũng không có”. Cái ông có chỉ là “một bụng văn” nhưng lại bị o ép nhiều chiều: thuê giấy mực, in, lại thuê cửa hàng, hao công tốn của những văn chương hạ giới lại rẻ mạt, “Kiếm được đồng lãi thực rất khó”, “Làm ăn quanh năm chẳng đủ tiêu”. Câu thơ đậm cảm xúc ngậm ngùi, nghi ngại về sứ mệnh của kẻ cầm bút.

Để rồi sau đó, Trời đưa ra những lời động viên hết sức chân thành: “Thôi con cứ về mà làm ăn/ Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”. Lời động viên cũng chính là lời tự an ủi chính mình và các văn sĩ cùng thời. Đoạn thơ này lại cho thấy cái “ngông” trong con người Tản Đàm tự tin, kiêu hãnh về giá trị của bản thân đồng thời ông cũng có ý thức trách nhiệm với cuộc đời.

Bằng thể thơ thất ngôn trường thiên, với ngôn ngữ trong sáng, giọng điệu tự nhiên Tản Đà đã mạnh dạn thể hiện cái tôi của bản thân. Đó là cái tôi: ngông ngạo, phóng túng, tự ý thức sâu sắc về tài năng, giá trị đích thực của mình, khao khát được khẳng định giá trị của mình trước cuộc đời.

4. Bài văn phân tích Hầu trời mẫu số 4

Tản Đà (1889 – 1939) tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở Sơn Tây thuộc Ba Vì, Hà Nội ngày nay. Sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời, là “người của hai thế kỉ”, ông học chữ Hán từ nhỏ nhưng sau chuyển sang sáng tác văn thơ bằng chữ Quốc ngữ. Với phong cách sáng tác đầy lãng mạn, bay bổng vừa phóng khoáng, ngông nghênh lại vừa cảm thương ưu ái – thơ văn ông được coi như một gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại. Tác phẩm “Hầu trời” trong tập “Còn chơi” (1921) là một sáng tác cho ta biết được nhiều điều về thơ và con người Tản Đà.

Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh khuynh hướng lãng mạn khá đậm nét trong văn chương thời đại, xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy cảnh ngang trái, xót đau. Bài thơ được Tản Đà viết diễn biến như một câu chuyện có chi tiết và sự kiện đầy hấp dẫn.

Đêm qua chẳng biết có hay không

Chẳng phải hoảng hốt,không mơ mòng

Thật hồn!Thật phách!Thật thân thể

Thật được lên tiên sướng lạ lùng

Điệp từ “thật” nhấn mạnh cảm xúc của thi nhân, những câu cảm thán bộc lộ cảm xúc bàng hoàng, câu khẳng định dường như lật lại vấn đề mơ mà như tỉnh, hư mà như thực. Cách giới thiệu ấy đã gợi cho người đọc về một tứ thơ lãng mạn nhưng cảm xúc là có thực. Tác giả muốn người đọc cảm nhận được cái hồn cốt trong cõi mộng, mộng mà như tỉnh, hư mà như thật. Cách vào chuyện đầy độc đáo và có duyên ấy làm cho câu chuyện mà tác giả sắp kể trở nên lôi cuốn.

Rồi nhà thơ kể về hoàn cảnh bắt đầu câu chuyện đầy li kì của mình:

Nguyên lúc canh ba nằm một mình

Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh

Nằm buồn ngồi dậy đun nước uống

Uống xong ấm nước nằm ngâm văn

Vậy là không gian mở đầu đã rất đầy đủ, thời gian – canh ba; không gian – đêm khuya; hoạt động – nằm một mình, uống nước ngâm thơ… Rất đầy đủ để đọc giả tưởng tượng ra một buổi đêm hết sức vắng lặng, quạnh quẽ. Đó là cái nền hấp dẫn để bắt đầu một câu chuyện lên tiên của nhà thơ. Vẫn những lời kể rất tự nhiên, nôm na, lý do lên trời cũng rất độc đáo mà hợp lí.

Trời nghe hạ giới ai ngâm nga

Tiếng ngâm vang cả sông Ngân hà

Làm trời mất ngủ trời đương mắng

Có hay lên đọc trời nghe qua

Mượn lời của nhà trời để nói về tiếng ngâm của mình “vang cả sông Ngân hà”. Ở đây đã thấy lộ rõ cái tôi cá nhân đầy chất lãng mạn bay bổng pha chút ngông trong thi nhân. Điều này càng rõ ràng khi thi nhân đọc thơ và nói về các tác phẩm của mình:

Đọc hết văn vần lại văn xuôi

Hết văn thuyết lý lại văn chơi

Thi nhân đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc. Thi nhân cũng kể tường tận về các tác phẩm của mình:

Hai quyển khối tình văn lý thuyết

Hai khối tình còn là văn chơi

Thần tiên giấc mộng văn tiểu thuyết

Giọng đọc của thi nhân rất đa dạng, hóm hỉnh và ngông ngênh. Đoạn thơ đã cho thấy thi nhân rất ý thức về tài năng văn thơ của mình, cũng là người táo bạo dám đường hoàng bộc lộ cái tôi cá thể. Ông cũng rất “ngông” khi tìm đến trời để thể hiện tài năng. Đây cũng là khát khao chân thành trong tâm hồn thi sĩ.

Sự độc đáo ở đoạn thơ còn thể hiện ở việc thi nhân tự khen thơ mình nhưng lại để cho trời và chư tiên khen ngợi:

Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:

“Anh ghánh lên đây bán chợ trời”

 Trời lại phê cho “văn thật tuyệt”

Văn trần được thế chắc có ít

Người ở phương nào ta chưa biết.”

Trời khen rất nhiệt thành: “văn thật tuyệt, văn chuốt như sao băng…” chư tiên thì xúc động, hâm mộ và tán thưởng: “tâm nở dạ, cơ lè lưỡi…” Đây là một lối ngông rất đáng yêu của thi sĩ. Cả đoạn thơ đậm chất lãng mạn. Đồng thời ở đây ta cũng thấy rõ tư tưởng thoát li của nhà thơ – muốn chốn thoát khỏi chốn trần tục, văn thơ của ông chỉ xứng cho người trời nghe, người đời không hiểu, không cảm hết được giá trị, tầm vóc của nó.

Ở đoạn thơ tiếp theo nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái tôi của mình gắn liền với tên tuổi thật của mình:

Con tên Khắc Hiếu họ Nguyễn

Quê ở Á châu về địa cầu

Sông Đà núi Tản nước Việt Nam

Trong văn chương việc thể hiện họ tên trong tác phẩm chính là một cách để thể hiện cái tôi của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài, biết trân trọng khẳng định tài năng của mình. Trong thời đại cuả Tản Đà, đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu như là cách thể hiện sự tự hào, tự tôn dân tộc. Nhà thơ còn khẳng định phong cách ngông của mình một cách hóm hỉnh:

“Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu

Đày xuống hạ giới vì tội ngông”

Trong cuộc đối thoại với tưởng tượng với nhà trời nhà thơ còn khẳng định trách nhiệm và nghĩa vụ cao cả của mình là lo việc “thiên lương”. Phải chăng đó cũng là lời khẳng định về thiên chức của những người cầm bút. Đây là tình huống được tác giả xây dựng đầy hợp lí để có cơ hội giãi bày về cái nghề của mình. Thi nhân kể về cuộc sống – đó là một cuộc sống nghèo khổ, túng thiếu, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, ở trần gian không tìm được tri âm phải lên cõi trần để thỏa nguyện nỗi lòng:

Bẩm trời cảnh con thực nghèo khó

Trần gian thước đất cũng không có

Văn chương hạ giới rẻ như bèo

Kiếm được đồng lãi thực rất khó

Nhà thơ Tản Đà được coi là người đặt nền móng cho thơ hiện đại không chỉ bởi hơi thở mới mẻ trong thơ ông, cái tôi hiên ngang trong các áng văn thơ của ông mà còn bởi ông là người đầu tiên “mang văn chương ra bán phố phường”.

Qua đoạn thơ ấy ta thấy hiện lên một bức tranh đầy chân thực và cảm động về cuộc sống của người nghệ sĩ trong xã hội bấy giờ, một cuộc sống cơ cực, không tấc đất cắm rùì, thân phận bị rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn… Cả đoạn văn là cảm hứng hiện thực bao trùm.

Ở đây nhà thơ cũng ý thức rất rõ về trách nhiệm của mình là truyền bá thiên lương. Điều đó giúp ta chứng tỏ Tản Đà lãng mạn chứ không thoát li hoàn toàn. Ông vẫn ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ với đời là góp phần đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn. Đó là sự khẳng định mình trước cuộc đời, khao khát được gánh vác việc đời.

Với hầu trời Tàn Đà đã đem lại cho văn học Việt nam đầu thế kỉ một luồng không khí mới. Qua một câu truyện tưởng tượng đầy hào hứng. Ta đã thấy một cái tôi ngông nghênh, hào hoa và cái tôi cô đơn bế tắc trước thời vận. Thi sĩ cũng đã tự tin khẳng định tài năng nói lên quan điểm văn chương thực hiện thiên lương của mình. Viết văn hay làm cho cuộc đời tốt đẹp hơn là xứ mạng mà trời đã giao cho nhà thơ.

Với cách kể truyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn người đọc, ngôn ngữ thơ tinh tế, gợi cảm, cảm xúc tự nhiên phóng túng trong thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do đã cho ta một tuyệt tác thi ca kì diệu.

Tản Đà – một con người xứng đáng để người đời tôn kính với những gì ông đã đóng góp cho cuộc đời và văn học.

Văn chương thời nôm na

Thú chơi có sơn hà

Ba vì ở trước mặt

Hắc giang bên cạnh nhà.

(Nguồn: Dương Đạt)

5. Bài văn phân tích Hầu trời mẫu số 5

Tản Đà (1889 – 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, ông sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời Hán học đã tàn và Tây học cũng mới bắt đầu nên con người ông kể cả học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương đều mang dấu ấn “người của hai thế kỉ” (Hoài Thanh). Vào những năm 20 của thế kỉ XX, tên tuổi Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng trên thi đàn, một số tác phẩm tiêu biểu của ông là: “Thơ Tản Đà” (1925); “Giấc mộng lớn” (tự truyện – 1928); “Còn chơi” (thơ và văn xuôi – 1921)… Thơ Tản Đà thể hiện “cái tôi” lãng mạn, bay bổng vừa phóng khoáng lại vừa cảm thương, chính vì vậy ông đã được nhà phê bình văn học Hoài Thanh xếp ở vị trí đầu tiên trong cuốn “Thi nhân Việt Nam”. Một bài thơ thể hiện khá rõ nét phong cách này của Tản Đà là bài “Hầu trời”. Bài thơ được in trong tập “Còn chơi”, xuất bản năm 1921, thể hiện rõ nhất “cái tôi” cá nhân ngông nghênh, phóng túng và khao khát được khẳng định giá trị bản thân trước cuộc đời của Tản Đà.

Bài thơ “Hầu trời” gây ấn tượng sâu sắc với người đọc bằng cách vào đề, cách dẫn dắt khá bất ngờ và thú vị, cuốn hút người đọc vào câu chuyện mà tác giả sắp kể:

“Đêm qua chẳng biết có hay không

Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng

Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể

Thật được lên tiên – sướng lạ lung”

Chính tác giả là chủ thể của giấc mơ cũng không dám khẳng định là giấc mơ đó có hay không, thực hay hư ảo. Nhưng ở các câu thơ tiếp theo với việc dùng ngữ điệu mãnh mẽ như để khẳng định yếu tố thực của giấc mơ. Từ “thật” được lặp lại bốn lần cũng như để nhấn mạnh sự thật của các chi tiết, hình ảnh trong giấc mơ.

Ở những khổ thơ tiếp theo, tác giả kể về lí do được lên “hầu trời” của mình:

“Nguyên lúc canh ba nằm một mình

Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh

Nằm buồn, ngồi dậy đun ấm nước

Uống xong ấm nước, ngồi ngâm văn.

….

….

Vào trông thấy Trời, sụp xuống lạy

Trời sai tiên nữ dắt lôi dậy

Ghế bành như tuyết vân như mây

Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy”.

Câu chuyện hoàn toàn hư cấu mà giống như một câu chuyện có thật vì có đủ tình huống, không gian, thời gian diễn ra sự việc và tác giả là nhân vật chính. Tác giả giải thích lí do của buổi “hầu trời” là do “tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời mất ngủ. Trời bèn sai tiên nữ xuống gọi thi sĩ lên đọc văn cho Trời nghe. Lí do của buổi “hầu trời” mà tác giả đưa ra như một khẳng định rằng: Cái may mắn được lên hầu trời gắn liền với những phút cao hứng trong thơ văn của nhà thơ.

Khi đã đưa ra lí do, tác giả kể tiếp diễn biến của buổi “hầu trời”. Câu chuyện diễn ra rất tự nhiên và hợp lí. Theo lệnh của Trời, thi sĩ đọc văn và ngâm văn của mình cho Trời và các chư tiên nghe.

“Truyền cho văn sĩ đọc văn nghe

Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc”.

Đúng với niềm đam mê của mình, thi sĩ đọc với tất cả sự nhiệt tình và phấn khích. Có lẽ chưa bao giờ thi sĩ lại cảm thấy hứng thú và thăng hoa đến như thế này nên đọc liền một mạch:

“Đọc hết văn vần sang văn xuôi

Hết văn thuyết lí lại văn chơi

Đương cơn đắc ý đọc đã thích

Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi”.

Thái độ của người nghe rất chăm chú và ai cũng tán thưởng, bộc lộ sự hâm mộ qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ: “Tâm như nở dạ”; “Cơ lè lưỡi”; “Hằng Nga, Chức nữ chau đôi mày”; “Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng” và khi hết mỗi bài thì tất cả cùng đồng loạt vỗ tay. Thi sĩ còn kể ra hàng loạt các tập thơ của mình như: “Khối tình”, “Đài gương”, “Lên sáu”… Nhận được sự ngưỡng mộ, thi sĩ được các chư tiên dặn: “Anh gánh lên đây bán chợ trời”.

Đoạn thơ tiếp theo thể hiện rõ ý thức về “cái tôi” cá nhân của tác giả rất cao:

“Trời lại phê cho: “văn thật tuyệt!

Văn trần được thế chắc có ít

Nhời văn chau chuốt đẹp như sao băng!

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng, tinh như sương!

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”

“Cái tôi” được thể hiện ở việc tác giả đã cố ý mượn lời của Trời để ca ngợi thơ văn của mình. Hiện tượng này từ trước đến nay trong lịch sử văn chương chưa từng thấy, nó không những chứng tỏ Tản Đà rất có ý thức về tài năng văn chương vượt trội của bản thân so với các nhà văn, nhà thơ cùng thời mà còn như khẳng định chính Tản Đà là người khơi nguồn cho một cuộc cách mạng về thơ ca, đúng với cái tên “người của hai thế kỉ” mà Hoài Thanh đã gọi. Cái hay, cái đẹp trong thơ văn Tản Đà được chính tác giả đem so sánh với vẻ đẹp tuyệt vời của các hiện tượng, sự vật trong vũ trụ như: sao băng, mây, gió, sương, tuyết…, thái độ của tác giả tỏ ra rất tự hào, kiêu hãnh về tài năng văn chương của mình. Đây chính là cái “ngông” của thi sĩ, tự khẳng định một cách rất “ngông”, rất Tản Đà.

Theo yêu cầu của Trời, thi sĩ tự xưng tên tuổi và thân thế:

“- Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa

Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn

Quê ở Á châu về địa cầu

Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”

Trời ngờ ngợ một lúc lâu rồi sai Thiên tào kiểm tra lại. Thiên tào tra sổ rồi bẩm báo:

“ – Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu

Đày xuống hạ giới vì tội ngông”.

Lúc ấy Trời mới phán rằng đó không phải là Trời đày mà là nhờ làm việc “thiên lương” của nhân loại. Thấy Trời phán vậy, thi sĩ liền trình bày một mạch nỗi khổ của bản thân và những khó khăn của nghề kiếm sống bằng ngòi bút:

“- Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó

Trần gian thước đất cũng không có

Trời lại sai con việc nặng quá

Biết làm có được mà dám theo”

Đoạn thơ này là một bức tranh hiện thực được vẽ bằng bút pháp tả chân thực, tỉ mỉ và rất cụ thể, phản ánh chính xác đời sống cùng cực của tầng lớp văn nghệ sĩ và tình hình lộn xộn của thị trường văn chương thời ấy. Cảm xúc ở đoạn thơ khi thi sĩ đọ thơ cho Trời nghe hứng khởi bao nhiêu thì đoạn này lại ngậm ngùi, chua xót bấy nhiêu. Giấc mơ “hầu trời” như sự biểu hiện tha thiết, mãnh liệt của khát khao được thể hiện tài năng của thi sĩ. Dường như Trời cũng thấu hiểu được tình cảnh của thi sĩ nên khuyên nhủ:

“Rằng: Con không nói Trời đã biết

Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết

Thôi con cứ về mà làm ăn

Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”

Tiếng gà gáy xao xác, tiếng người dậy báo hiệu đã hết đêm. Cuộc chia tay giữa thi sĩ với Trời và các chư tiên diễn ra trong niềm xúc động:

“Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi

Trông xuống trần gian vạn dặm khơi

Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống

Theo đường không khí về trần ai”

Thi sĩ đã tỉnh khỏi giấc mộng nhưng những sự việc diễn ra vẫn còn đầy ấn tượng khiến thi sĩ phải thốt ra như sự tiếc nuối:

“Một năm ba trăm sáu mươi đêm

Sao được mỗi đếm lên hầu Trời”.

Câu chuyện “hầu trời” đã phản ánh khá rõ tính cách của Tản Đà, ông đã mạnh dạn tự biểu hiện “cái tôi” cá nhân, một “cái tôi” ngông, phóng túng tác giả ý thức rất rõ về tài năng, dám đàng hoàng công khai cái tài văn chương hơn người của mình. Bài thơ “Hầu trời” là một bài thơ hay và độc đáo, tiêu biểu cho tính chất giao thời giữa cái mới và cái cũ trong nghệ thuật thơ Tản Đà.

Trên đây, thcs Hồng Thái đã tổng hợp một số gợi ý cơ bản cũng như mẫu dàn ý chi tiết cho bài phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà. Hi vọng, cùng với những bài văn mẫu tham khảo ở cuối bài viết các em sẽ có thêm những ý tưởng mới, vốn từ ngữ mới cho bài viết của mình. Chúc các em học tốt !

Phân tích bài thơ Hầu trời, hướng dẫn lập dàn ý, sơ đồ tư duy và tuyển tập những bài văn mẫu hay phân tích nội dung nghệ thuật bài thơ Hầu trời của Tản Đà.

Đăng bởi: thcs Hồng Thái

Chuyên mục: Giáo dục

Bản quyền bài viết thuộc Trường THCS Hồng Thái Hải Phòng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: Trường thcs Hồng Thái (thcshongthaiad.edu.vn)

THCS Hồng Thái

“Đừng xấu hổ khi không biết, chỉ xấu hổ khi không học.” Khuyết Danh
Back to top button