Tra Cứu

Nêu cảm nhận của em về bài thơ Chiều xuân – Anh Thơ

Bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ là một trong những bài thơ phổ biến trong chương trình học thêm môn Ngữ văn lớp 11. Do đó, tuyển tập Văn mẫu 11 của trường THPT Ngô Thì Nhậm đã được biên soạn đầy đủ, nhằm cung cấp đủ thông tin để học sinh có thể viết bài văn cảm nhận sâu sắc và đầy cảm xúc.

Văn mẫu Cảm nhận của em về bài thơ Chiều xuân – Anh Thơ

Cảm nhận bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ mẫu 1

“Mùa xuân không chỉ là thời điểm của sự sống mới và sự nở rộ của cây cỏ, mà còn là mùa của những tâm hồn thi sĩ vẫn say mê miêu tả vẻ đẹp xuân. Trong dòng thơ rất nhiều nhà thơ đã tả sự tinh khôi của buổi sáng xuân, khi ánh nắng tràn ngập mọi nẻo đường. Tuy nhiên, Anh Thơ lại lựa chọn tả mùa xuân vào buổi chiều trong bài thơ Chiều xuân. Qua bài thơ này, ta được trải nghiệm thêm vẻ đẹp êm dịu của xuân trên những cánh đồng quê thanh bình.

Nhà thơ vẽ lên một bức tranh mùa xuân vào buổi chiều, bắt đầu bằng hình ảnh mưa xuân nhẹ nhàng:

Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước trôi sông;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.

Những từ ngữ này hòa quyện với không gian bến đò cũ và tạo nên một bức tranh mùa xuân với âm thanh, màu sắc và hình ảnh. Từng câu thơ truyền đạt những hình ảnh đặc trưng của mùa xuân miền Bắc: cơn mưa nhẹ nhàng, chùm hoa xoan tím rơi trên quán nhỏ… Hình ảnh mưa bụi thể hiện sự êm đềm của những hạt mưa xuân nhẹ nhàng.

Buổi chiều xuân cũng trở nên vắng vẻ như những buổi chiều khác, con đò trôi dạt theo dòng nước một cách lười biếng và im lìm trên bến vắng. Trước mắt chúng ta là một cảnh tượng tĩnh lặng của dòng sông và con đò. Anh Thơ không cần tìm kiếm xa xôi, mà những hình ảnh thông thường đã trở thành thơ ca khi chỉ cần một tâm hồn nhạy cảm để cảm nhận. Quán nước cũng im lìm trong sự vắng lặng, chòm xoan hoa tím rụng tơi bời. Mùa chiều có phần u tối, nhưng mùa xuân vẫn nảy nở và đầy sức sống. Anh Thơ cho ta thấy một vẻ đẹp nhẹ nhàng lững lẫy của mùa xuân. Mọi thứ diễn ra nhẹ nhàng và buồn lẫn trong sự tĩnh lặng của con người.

Chuyển sang khổ thơ thứ hai, ta chứng kiến một cảnh khác, không phải là bến vắng và con đò lười biếng nữa, mà là mùa xuân trên những triền đê:

Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió.
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.

Màu sắc của cỏ trở nên dịu nhẹ, với sắc cỏ xanh mát. Không rực rỡ như bài thơ xuân chín của Hàn Mặc Tử, cũng không trầm buồn như trong thơ Quách Tấn, mà màu sắc ấy là gam màu của cuộc sống phản chiếu qua tâm trạng u uất, buồn phiền của thi sĩ. Con sáo đen đậu xuống một cách vu vơ, mấy cánh bướm bay lượn trong gió, và những con trâu thong thả ăn những búi cỏ ướt đẫm mưa xuân.

Ở đây, nghệ thuật ngôn từ của nhà thơ thực sự tuyệt vời. Những từ như “đàn”, “mấy”, “những” thể hiện sự đa dạng và đầy đủ, nhưng không quá nhiều trong bức tranh chiều mùa xuân. Đặc biệt, hình ảnh cánh bướm trôi trước gió và đàn trâu ăn mưa tạo nên sự thú vị. Thường thì ta nói rằng bước theo dòng nước, ăn cỏ hay những giọt mưa, nhưng nhà thơ đã biến những điều đó trở thành hình ảnh nghệ thuật tuyệt đẹp. Điều này thể hiện sự tương phản trong cảnh vật thiên nhiên, khi cánh bướm nhẹ bay trôi trong gió nhẹ nhàng. Đàn trâu ăn những búi cỏ ướt đẫm như đang thưởng thức mưa xuân.

Sau khi chia tay cảnh chiều xuân trên triền đê và bãi cỏ, ta được chứng kiến mùa xuân trên đồng lúa nước quen thuộc:

Trong đồng hoa lúa xanh dờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.

Cơn mưa xuân êm đềm làm ướt đẫm những cây lúa trên đồng. Từ “lặng” mang đến sự yên bình và êm đềm của cảnh vật xuân trong làng quê. Đồng cỏ không thiếu những hình ảnh cò con đứng chân co rồi vụt bay lên trời. Cảnh tượng ấy khiến cho cô gái yếm thắm giật mình. Điều đáng yêu đó khơi dậy nhiều liên tưởng về những người xưa. Đặc biệt, câu cuối với bốn từ cùng âm đầu “c”: “cúi cuốc cào cỏ” thể hiện sự nhịp nhàng và điệu bộ. Những cô gái yếm thắm không chỉ duyên dáng trong trang phục cổ truyền mà còn đẹp với tinh thần chăm chỉ chăm sóc cho những cây lúa đang mọc và cuốc những búi cỏ chuẩn bị nở hoa.

Như vậy, ba cảnh vật kết hợp thành một bức tranh chiều xuân với vẻ đẹp đang nảy nở nhưng cũng đậm chất êm đềm, lắng đọng và chút buồn phiền của thi sĩ. Bức tranh mang lại cảm giác thuần khiết và sáng sủa của tâm hồn thi sĩ.

Cảm nghĩ của em về bài thơ Chiều xuân của Anh Thơ mẫu 2

Nữ sĩ Anh Thơ (1921 – 2005) thực ra tên là Vương Kiều Ân, xuất thân từ một gia đình truyền thống theo Nho học. Quê gốc của nữ sĩ nằm ở thị xã Bắc Giang, nhưng bà lại sinh ra và lớn lên tại Ninh Giang, Hải Dương. Dù chưa hoàn thành tiểu học, nhưng bà có tài văn chương bẩm sinh, đam mê đọc sách và sáng tác thơ. Dưới bút danh Anh Thơ, bà trở thành một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới, sáng tác những bài thơ về đề tài nông thôn, tràn đầy những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, gợi nhớ những kỷ niệm êm đềm về làng quê, quê hương trong tâm trí mỗi con người. Mỗi bài thơ của bà như một bức tranh thiên nhiên tươi mát, hài hòa, mang đến không khí và sự sống êm đềm của miền quê Bắc Bộ. Vì những đóng góp của mình, nữ sĩ Anh Thơ đã được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007.

Trong tập Bức tranh quê (xuất bản năm 1941), bài thơ “Chiều xuân” được xem là một ví dụ điển hình cho phong cách nghệ thuật của Anh Thơ. Bức tranh tự nhiên trong mùa xuân tươi mát, thơ mộng và khung cảnh làng quê yên bình khiến con người cảm thấy gắn bó hơn với quê hương.

Buổi chiều thường là khoảnh khắc dễ gợi lên cảm xúc và sự sáng tạo của những người viết thơ. Nhà thơ đã quan sát và lựa chọn những hình ảnh và chi tiết đặc trưng của cảnh vật để vẽ nên ba bức tranh chiều xuân êm đẹp, yên bình.

Bức tranh đầu tiên mô tả cảnh một chiều mưa bụi, với hình ảnh bến sông vắng khách, chiếc đò nằm yên như đóng băng, quán tranh xơ xác bên chòm xoan hoa tím rụng đầy:

“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,

Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi …

Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng

Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.”

Nữ sĩ quan sát, tận hưởng từ trái tim để cảm nhận được tâm hồn của cảnh vật thân quen. Trong chiều mưa lạnh, quang cảnh bến sông ven làng trở nên thêm tiêu điều và vắng vẻ. Nó như một bức tranh thiếu sắc màu và ánh sáng, đong đầy sự u buồn. Trên không gian yên lặng gần như tuyệt đối, vẫn còn những hoạt động nhẹ nhàng của cảnh vật, dù chỉ như hư ảo: Mưa nhè nhẹ rơi lên bến vắng. Con đò thường ngày, trước kia luôn bận rộn chở khách qua sông, giờ đây dường như mệt mỏi, lười biếng nằm yên để nước sông trôi qua. Quán tranh cũng rút lại, đứng im trong tĩnh lặng vì không còn tiếng cười và tiếng nói rôm rả của khách ra vào. Những chùm hoa xoan tím phượng rụng tơi bời trước cơn gió xuân, mang hơi lạnh của mùa đông tàn phai. Tất cả đều chứa đựng một nỗi buồn sâu kín không thể nói thành lời.

Bức tranh thứ hai:

“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,

Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;

Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,

Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.”

Hình ảnh đường đê trong buổi chiều xuân được nữ sĩ cảm nhận là một khung cảnh thân quen và bình yên. So với cảnh bến sông vắng lặng ở trên, cảnh đường đê trở nên vui tươi và đầy sức sống hơn. Màu xanh biếc của cỏ non trải dài, mềm mại, thu hút mắt nhìn và khiến nhà thơ trở thành một phóng viên tưởng tượng, mang đến một ý tưởng bất ngờ và thú vị: Bầy trâu bò đang ung dung gặm cỏ, như thong thả cúi mình ăn mưa. Đó là một ảo giác nghệ thuật nảy sinh từ thực tế, qua góc nhìn lãng mạn của nhà thơ. Trên nền xanh mát và trong lành đó, những nét chấm phá của đàn sáo đen và những cánh bướm vụt bay tạo điểm nhấn. Đoạn thơ mang đến nhiều cảm giác tươi mát và thơ mộng, chứng tỏ tác giả có khả năng quan sát và cảm nhận tinh tế, nhận ra cảnh vật vừa thật vừa hư ảo, vừa quen vừa mới.

Tuy nhiên, bức tranh quê hương dẫu đẹp đẽ và thanh bình đến đâu cũng trở nên trống trải nếu thiếu hình ảnh con người. Sự hiện diện của con người làm cho bức tranh thiên nhiên trở thành một bức tranh về cuộc sống:

“Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,

Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra.

Làm giật mình một cô nàng yếm thắm,

Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.”

Khung cảnh trước mắt thật như một giấc mơ. Giữa cánh đồng lúa xanh mướt nổi bật hình ảnh một cô gái yếm thắm tràn đầy sức sống của tuổi xuân. Hình ảnh đáng yêu đó thể hiện sự tình cảm lãng mạn và chân thành sâu sắc trong tâm hồn của nữ thi sĩ nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới. Tiếng ồn bất ngờ từ bầy cò con chớp chớp bay lên làm cô gái giật mình ngạc nhiên, tạo thành một điểm nhấn nghệ thuật. Hình ảnh cô gái làm việc chăm chỉ, cúi xuống cuốc cào cỏ giữa khung cảnh buổi chiều xuân êm đềm đã làm xúc động trái tim mọi người. Vẻ đẹp của cô gái bên cạnh vẻ đẹp của thiên nhiên làm cho cảnh sắc bình thường, quen thuộc trở nên đặc biệt và lộng lẫy. Sử dụng thủ thuật miêu tả động tĩnh đã làm nổi bật vẻ thanh bình, yên tĩnh của chiều xuân trong vùng đồng quê.

Ba bức tranh vẽ ba khung cảnh khác nhau trong cùng một thời điểm. Nữ sĩ Anh Thơ tìm cảm hứng từ những khung cảnh giản dị và quen thuộc xung quanh và thể hiện khả năng miêu tả tỉ mỉ, chi tiết để lấy lại cái hồn của cảnh vật thiên nhiên. Ngoài ra, Anh Thơ còn đóng góp cho phong trào Thơ Mới với cách sử dụng từ ngữ độc đáo, mới lạ mà trước đây chưa từng được thấy trong thơ ca. Các cụm từ như “mưa đổ bụi”, “đò biếng lười”, “rụng tơi bời”, “mổ vu vơ”, “trâu bò thong thả cúi ăn mưa” đã tạo nên sự độc đáo và mới mẻ, cùng với đó là vẻ duyên dáng và tinh tế của các câu thơ, làm nổi bật phong cách lãng mạn của tác giả. Bức tranh tổng thể về buổi chiều xuân yên bình, thanh tịnh không chỉ phù hợp với tâm hồn của nữ sĩ mà còn gợi lên những tình cảm sâu sắc về làng quê, quê hương trong lòng mỗi con người.

Trên hết, Anh Thơ đã tạo nên những bức tranh tuyệt vời, lấy cảm hứng từ những cảnh vật đời thường, thể hiện cảm xúc và tình cảm sâu sắc. Cách sử dụng ngôn từ và khả năng miêu tả tinh tế của bà đã tạo nên những tác phẩm độc đáo, lấp đầy cảm xúc và ý nghĩa.

Cảm nhận bài thơ đọc thêm Chiều xuân mẫu 3

“Nữ sĩ Anh Thơ, tên thật là Vương Kiều Ân, sinh năm 1918 tại Bắc Giang, là một nhà thơ và cách mạng với tình yêu sâu đậm dành cho quê hương. Trong hành trình cuộc đời và sự nghiệp viết thơ, bà đã tặng cho Bắc Giang nhiều tác phẩm đẹp. Tôi được biết đến với nữ sĩ Anh Thơ và bài thơ “Chiều xuân” của bà từ những năm đầu thập kỷ 1980. Quê tôi nằm ven sông, và ở đó có một con đò. Con đường từ bến sông vào làng, khi cuối mùa xuân, tràn ngập hoa xoan tím rụng rời. Là một cô bé say mê văn chương từ thuở nhỏ, tôi tình cờ đọc bài thơ này, dù không hiểu hết ý nghĩa, nhưng những hình ảnh trong bài thơ đã thu hút tôi:

“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi…
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…”
(Chiều xuân – Anh Thơ)

Tôi yêu thích những bài thơ của bà, dù là thế hệ sau và sống ở một miền quê xa cách Bắc Giang hàng trăm cây số, tôi không ngờ một ngày tôi sẽ đặt chân đến quê hương của bà, đi trên con đê bà từng bước qua và tưởng tượng về bà trong một buổi chiều xuân trên sông Thương, khi “mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng”. Và đặc biệt, tôi không thể tin được rằng một ngày nào đó tôi đã có dịp gặp gỡ và phỏng vấn bà khi bà trở lại Bắc Giang.

Từ năm 1941, tác phẩm “Bức tranh quê” của nữ sĩ Anh Thơ đã nhận được giải khuyến khích từ Tự lực Văn đoàn, và tên tuổi của người phụ nữ trẻ làm thơ tại bến sông Thương đã gây sốt trên văn đàn từ lúc đó. Bài thơ “Chiều xuân” của bà đã tạo nên một không gian xuân đẹp và đầy cảm xúc, miêu tả một vùng quê trung du đẹp và đồng thời buồn bã. Sau năm 1945, Anh Thơ trở thành một nhà thơ cách mạng, không chỉ sáng tác thơ để cổ vũ và động viên tinh thần cách mạng mà còn trực tiếp tham gia vào hoạt động “chị nuôi”, quyên góp tiền gạo để nuôi quân. Bà đã mặc áo dài lụa vân trắng, cưỡi ngựa hồng dẫn đầu đoàn quân tiến vào trại phỉ, góp phần thuyết phục mọi người đi theo Việt Minh. Năm 1956, tập thơ “Kể chuyện Vũ Lăng” của bà được tặng giải thưởng của Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam, và năm 2001, bà được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh vinh dự.

Đối với quê hương Bắc Giang, Anh Thơ luôn có một tình cảm đặc biệt. Các tác phẩm của bà, như những cuốn nhật ký, phản ánh hành trình sống, sáng tác và hoạt động cách mạng với những người mà bà đã gặp gỡ, những con đường bà đã đi qua, thường ẩn chứa hình ảnh mảnh đất bên dòng sông Thương, đặc biệt là trong các tác phẩm “Chiều xuân”, “Tiếng chim tu hú”, “Từ bến sông Thương”… Tôi không nhớ rõ, khoảng năm 1993-1994. Hôm đó là chủ nhật, tôi biết rằng vợ chồng nữ sĩ Anh Thơ sẽ đến thăm gia đình bác Phương Minh Nam – một lão thành cách mạng, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Hà Bắc, là bạn đồng nghiệp cùng bà từ thời kháng chiến. Tôi được phân công đến gặp bà để tiến hành cuộc phỏng vấn.

Bản thân tôi cảm thấy xúc động và hồi hộp trước cuộc gặp sắp diễn ra. Với một túi xách nhỏ và một chiếc máy ghi âm khá to khổ khoác trên vai, tôi tìm đến nhà bác Phương Minh Nam ở phố Nghĩa Long – phường Lê Lợi. Cả gia đình bác đang tất bật sửa soạn để đón vợ chồng nữ sĩ Anh Thơ, bởi đó là lần đầu tiên bà đưa người bạn đời của mình là bác sĩ Bùi Viên Dinh, quê ở Đồng Nai “ra mắt” những người bạn ở Bắc Giang. Nghe ý định của tôi, cả bác Nam và bác gái Nguyễn Thị Uyên đều rất vui và ủng hộ. Khoảng gần 10h trưa thì vợ chồng nữ sĩ Anh Thơ về tới nơi. Nữ sĩ Anh Thơ với dáng mảnh, cao gầy, tóc chải rẽ ngôi lệch, buội cao, dáng đi nhanh nhẹn, phong cách rất giản dị mà vẫn toát lên vẻ đài các, thanh lịch của trí thức thời xưa. Cho đến bây giờ tôi vẫn cho mình là người may mắn khi được chứng kiến cuộc hội ngộ ấy.

Những cái nắm tay thật chặt, những câu hỏi dồn dập về những người bạn cũ, những câu chuyện về ký ức xa xôi, những nụ cười và những giọt nước mắt… cả những câu chuyện tếu đùa vui, cứ như họ còn rất trẻ, cho dù ai cũng đã qua cái tuổi “thất thập cổ lai hy”.

Sợ tôi đợi lâu, bác Nam nói với nữ sĩ Anh Thơ có cô nhà báo muốn được phỏng vấn bà. Có lẽ nữ sĩ cũng hơi bất ngờ vì bà hoàn toàn muốn dành chuyến đi này cho bạn bè, nhưng bà vẫn vui vẻ nhận lời. Bà tỏ ra rất vui khi thấy tôi khá thuộc thơ của bà. Qua câu chuyện, nữ sĩ Anh Thơ đã kể cho tôi nghe về hoàn cảnh ra đời của bài thơ “Chiều xuân”, về cảm giác của bà khi biết tác phẩm “Bức tranh quê” được giải thưởng; những thay đổi trong nhận thức của bà khi đi theo cách mạng; nỗi xúc động về những em bé, những người phụ nữ trong kháng chiến mà bà đã gặp…

Đang dở câu chuyện, như chợt nhớ ra, bà gọi bác Uyên hỏi thăm về bà Nguyễn Thị Mùi (nguyên là Phó Chủ tịch Hội Phụ nữ tỉnh), rồi bà quay sang tôi, lau nước mắt, xúc động: “Một trong những người tôi luôn kính trọng, cảm phục và thương mến là chị Mùi. Tôi có may mắn hơn chị là ít nhiều còn được học hành, biết chữ. Chị Mùi điển hình là người phụ nữ nông dân giàu nghị lực, luôn nhẫn nại, hy sinh vì cách mạng. Mỗi lần đọc câu thơ của nhà thơ Tố Hữu: ‘Việt Nam – rũ bùn đứng dậy sáng loá!’ là tôi lại nghĩ đến chị Mùi”.

Khi tôi hỏi về cảm xúc của bà khi trở lại thăm quê hương Bắc Giang, bà nói: “Tôi đã ở Bắc Giang từ những ngày còn trẻ và có rất nhiều kỷ niệm. Bắc Giang giờ đây đã thay đổi nhiều. Mừng nhất là phụ nữ Bắc Giang ngày càng được tôn trọng, bình đẳng với nam giới”.

Chiều hôm ấy, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh đã mời vợ chồng nữ sĩ Anh Thơ giao lưu với các anh chị em văn nghệ sĩ của địa phương. Ban tổ chức đã dành cho nữ sĩ một sự bất ngờ, đó là đón cụ Mùi tới cuộc giao lưu. Đang say sưa chuyện văn chương, nhìn thấy cụ Mùi, nữ sĩ Anh Thơ ôm chầm lấy cụ và khóc nức nở, khiến ai cũng xúc động. Bà cứ nắm vai, nắm tay cụ Mùi và nói: “Chị Mùi của tôi, người phụ nữ Việt Nam ‘rũ bùn đứng dậy sáng loá’ của tôi đây!”.

Cuộc gặp gỡ đó đã được gần 20 năm trôi qua. Cụ Mùi, nữ sĩ Anh Thơ và bác Phương Minh Nam đã không còn ở cạnh chúng ta nữa… nhưng mỗi lần nhớ lại, trong lòng tôi vẫn cảm thấy rưng rưng. Chiều nay, khi đi trên đê sông Thương, ngắm cây cầu mới vắt ngang qua sông và tấp nập dòng người đi sắm Tết, tôi vẫn như thấy thấp thoáng bóng bà đi trong chiều xuân có mưa đổ bụi êm êm và đầy hoa xoan tím… Trong khoảnh khắc ấy, tôi đã hiểu rằng chính nữ sĩ với tình yêu thiết tha trong bài thơ “Chiều xuân” đã nói với thế hệ sau này hãy biết yêu quê hương từ những điều quen thuộc, bình thường nhất như con đò, bến nước, dòng sông… Hãy biết trân trọng và giữ gìn quá khứ. Và có lẽ, đó cũng chính là điều mà mùa xuân luôn mong chờ!

THCS Hồng Thái

“Đừng xấu hổ khi không biết, chỉ xấu hổ khi không học.” Khuyết Danh
Back to top button